Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, trong những ngày này, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trên toàn thế giới long trọng kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Ph.Ăngghen - nhà lý luận lỗi lạc, chiến sĩ cách mạng kiên cường, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và những người cộng sản thế giới.
|
Ph. Ăngghen - Nhà lý luận và chiến sĩ cách mạng vĩ đại.
(Ảnh tư liệu) |
Ph.Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11
năm 1820 trong một gia đình tư sản công nghiệp ở thành phố Bácmen, tỉnh
Ranh của Vương quốc Phổ (thuộc nước Đức ngày nay). Dòng tộc Ông sở hữu
một khối lượng tài sản khổng lồ gồm các cơ sở sản xuất hàng dệt may và
buôn bán hàng dệt may. Với truyền thống và cơ ngơi của dòng tộc như vậy,
cha của Ph.Ăngghen muốn Ph.Ăngghen trở thành thương gia và sau này sẽ
là người kế nghiệp mình nên khi Ăngghen chưa tốt nghiệp trung học, Ông
đã phải chuyển sang học nghề buôn theo quyết định của cha mình. Mặc dù
phải làm theo ý của cha nhưng khát vọng của Ph.Ăngghen không phải trở
thành một nhà tư bản giàu có vì sống trong dòng tộc tư bản công nghiệp,
Ông hiểu rất rõ sự giàu có của các nhà tư bản hình thành trên sự nghèo
đói của công nhân như thế nào. Ông muốn đứng trong hàng ngũ của những
người có lý tưởng nhân đạo, muốn hoạt động để xóa bỏ sự nghèo nàn, tủi
nhục[1]. Khát vọng này từng bước đã được Ông thực hiện, nhất là từ khi gặp C.Mác lần thứ hai vào tháng 8 năm 1844 tại Pari[2].
Bắt đầu từ thời gian này trở đi, Ph.Ăngghen và C.Mác trở thành những
người bạn gắn bó với nhau suốt cả cuộc đời để cùng xây dựng lên các học
thuyết định hướng cho hoạt động của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động bị áp bức, bóc lột. Các Ông đã trở thành những chiến sỹ, những
người đồng chí, những lãnh tụ của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động đấu tranh vì hòa bình, vì sự tiến bộ xã hội.
Ngày 5 tháng 8 năm 1895, Ph.Ăngghen từ
trần ở Luân đôn. Ông ra đi nhưng để lại một di sản vĩ đại mà nhân loại
có thể tìm thấy giá trị của nó ở nhiều góc độ khác nhau. Nếu tiếp cận
một cách khái quát nhất thì đấy là di sản về trí tuệ của Ph.Ăngghen trong việc xây dựng lý luận của giai cấp vô sản và di sản về tấm gương nhân hậu, thủy chung, khiêm nhường của Ph.Ăngghen trong cuộc sống.
1. Di sản về trí tuệ của Ph.Ăngghen trong việc xây dựng lý luận của giai cấp vô sản
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Từ ngày mà
vận mệnh đã gắn liền Các Mác với Phri-đrich Ăng-ghen thì sự nghiệp suốt
đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ. Cho nên muốn
hiểu Phri-đrich Ăng-ghen đã làm gì cho giai cấp vô sản thì phải nhận rõ ý
nghĩa của học thuyết và hoạt động của Mác đối với sự phát triển của
phong trào công nhân hiện đại”[3].
Trong lĩnh vực này, Ph.Ăngghen là người đã cùng C.Mác và độc lập với
C.Mác xây dựng thành công cả ba bộ phận cấu thành lý luận của giai cấp
vô sản, gồm: triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Về triết học, triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Với chủ nghĩa duy vật biện chứng,
ngoài những tác phẩm viết chung với C.Mác, những tác phẩm Ph.Ăngghen
viết độc lập như “Chống Đuyrinh”, “Biện chứng của tự nhiên”, “Lút vích
Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, v.v. đã để lại dấu
ấn vô cùng sâu sắc về thế giới quan duy vật biện chứng khi Ông khẳng
định: Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới thống
nhất ở tính vật chất; vận động, không gian, thời gian là những phương
thức tồn tại của vật chất; mọi vận động trong thế giới vật chất đều tuân
theo những quy luật chung nhất, vốn có của nó như “Quy luật về sự
chuyển hóa từ số lượng thành chất lượng và ngược lại”, “Quy luật về sự
xâm nhập lẫn nhau của các mặt đối lập”, “Quy luật về sự phủ định của phủ
định”, v.v. Ph.Ăngghen cũng là người đầu tiên đã vận dụng những quy
luật này vào việc nhận thức sự vận động của giới tự nhiên, luận giải rõ
mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên - con người - xã hội; v.v.[4].
Với chủ nghĩa duy vật lịch sử,
tác phẩm “Lược khảo phê phán khoa kinh tế chính trị” - công trình lớn
đầu tiên của Ph.Ăngghen về kinh tế được viết trong năm 1843 và đầu năm
1844 - giữ vai trò rất quan trọng đối với quá trình hình thành chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Trong tác phẩm này, ngoài việc phê phán các nhà kinh
tế học tư sản, Ph.Ăngghen đã nhìn nhận sâu sắc cuộc cách mạng công
nghiệp ở Anh, nội dung kinh tế và ảnh hưởng xã hội của nó[5].
Tác phẩm cung cấp nhiều tư liệu quan trọng cho “Hệ tư tưởng Đức”,
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính
trị - Lời tựa” và một số tác phẩm khác của C.Mác và Ph.Ăngghen sau này;
trong đó “Hệ tư tưởng Đức” là tác phẩm viết chung của hai Ông, thể hiện
những quan điểm duy vật mang tính nền tảng cho việc nhận thức lịch sử -
xã hội. Theo đó, sản xuất vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại của xã
hội và tổng thể những lực lượng sản xuất mà con người đạt được quyết
định trạng thái của xã hội[6]; không phải ý thức quyết định đời sống của con người mà chính đời sống của con người quyết định ý thức của họ[7];
v.v. Những tư liệu này được C.Mác hệ thống, khái quát thành tư tưởng cơ
bản nhất quan điểm duy vật về lịch sử, thể hiện trong tác phẩm “Góp
phần phê phán khoa kinh tế chính trị - Lời tựa” của Ông là: Sản xuất vật
chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội, sự phát triển này
là quá trình lịch sử - tự nhiên, tuân theo những quy luật khách quan,
trong đó trước hết và quan trọng nhất là quy luật về lực lượng sản xuất -
quan hệ sản xuất, quy luật về cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng[8].
Sự hình thành và phát triển chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã xác lập một thế giới
quan khoa học và một phương pháp luận khoa học, nó không chỉ giải thích
thế giới mà còn là công cụ định hướng cho con người cải tạo thế giới.
Về kinh tế chính trị, Ăngghen đã cùng Các Mác xây dựng lên một học thuyết kinh tế mới, đem lại một cuộc cách mạng trong kinh tế học chính trị.
Từ những tác phẩm đầu tay của mình như “Lược khảo phê phán khoa kinh tế chính trị”, “Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh” cùng
nhiều bài viết khác, Ph.Ăngghen đã vạch rõ sự khốn cùng của người lao
động, kịch liệt phê phán kinh tế chính trị tư sản biện hộ cho hệ thống
tư bản chủ nghĩa, từ đó Ông chỉ ra nguyên nhân sâu xa của những bất bình
đẳng, bất công xã hội, nguyên nhân sâu xa của sự khốn cùng mà giai cấp
công nhân và người lao động đang gánh chịu là chế độ sở hữu tư nhân tư
liệu sản xuất, nhất là chế độ sở hữu tư sản[9].
Chính những phát hiện ban đầu mang tính khoa học này của Ph.Ăngghen đã
gợi mở cho Các Mác một hướng nghiên cứu mới về xã hội tư bản chủ nghĩa -
hướng nghiên cứu chuyển từ triết học và luật học sang nghiên cứu kinh
tế chính trị. Đúng như V.I.Lênin đã nhận định: “Rõ ràng là mối quan hệ
với Ăngghen đã thúc đẩy Mác bắt tay vào nghiên cứu chính trị kinh tế
học, là khoa học trong đó những tác phẩm của Mác đã gây ra cả một cuộc
cách mạng”[10].
Cuộc cách mạng mà V.I.Lênin đề cập đến là sự ra đời của Học thuyết giá
trị thặng dư - Học thuyết được coi là “hòn đá tảng” trong toàn bộ lý
luận về kinh tế chính trị của C.Mác vì nó đã phát hiện ra quy luật kinh
tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, làm sáng tỏ bản chất của quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Về chủ nghĩa xã hội khoa học - lĩnh vực “thể hiện về mặt lý luận của phong trào vô sản”[11]
được V.I.Lênin khái quát: “Có thể vắn tắt nêu công lao của Mác và
Ăngghen đối với giai cấp công nhân như sau: hai Ông đã dạy cho công nhân
tự nhận thức được mình và có ý thức về mình, và đã đem khoa học thay
thế cho mộng tưởng”[12].
Ngay trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” - văn kiện cương lĩnh đầu
tiên của chủ nghĩa cộng sản khoa học do C.Mác và Ph.Ăngghen viết được
công bố vào đầu năm 1848, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm sáng tỏ những quy
luật phát triển của xã hội dẫn đến sự thay thế nhau của các phương thức
sản xuất để luận chứng cho sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản, chỉ
rõ những con đường xây dựng chế độ xã hội mới là chủ nghĩa cộng sản.
Cũng trong chương này, các tác giả đã giải thích sứ mệnh lịch sử của
giai cấp vô sản với tư cách là lực lượng thực hiện cuộc cách mạng xã
hội, để “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai
cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[13].
Với bản thân Ph.Ăngghen, có thể nói suốt
cả cuộc đời, Ph.Ăngghen đã gắn bó chặt chẽ với giai cấp công nhân và
phong trào công nhân từ tri thức, sự cảm thông, tấm lòng trung thành vô
hạn và từ lập trường kiên định cách mạng của mình. Ngay cả khi ở trung
tâm công nghiệp của Anh là Mansetxtơ, nơi Ph.Ăngghen đến một hãng buôn
mà cha Ông có cổ phần, Ph.Ăngghen cũng không phải chỉ làm việc ở văn
phòng mà Ông còn thường xuyên đi vào các khu phố bẩn thỉu - nơi công
nhân sống chen chúc, thấy tận mắt sự khốn cùng và những nỗi khổ đau của
họ.. Những chuyến đi này giúp Ph.Ăngghen trực tiếp nhận thấy nhu cầu bức
thiết của một giai cấp bị áp bức, bị bóc lột tàn bạo nhất trong chủ
nghĩa tư bản và phát hiện ra sức mạnh to lớn ở giai cấp này với tư cách
là một một lực lượng xã hội đóng vai trò chủ đạo thực hiện cuộc cách
mạng xóa bỏ mọi sự áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới vì sự phát
triển của con người. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen chỉ rõ:
“phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra một lực lượng bị buộc phải
hoàn thành cuộc cách mạng ấy, nếu không sẽ bị diệt vong”[14], “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới …, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”[15].
Nhìn nhận quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I.Lênin khẳng định: “Ăngghen là người đầu tiên đã nói rằng giai cấp vô sản không phải chỉ là
giai cấp đau khổ, rằng chính địa vị kinh tế nhục nhã của giai cấp vô
sản thúc đẩy, một cách không gì ngăn cản nổi, nó tiến lên và buộc nó
phải đấu tranh cho sự giải phóng cuối cùng của nó. Và giai cấp vô sản
đấu tranh sẽ tự mình giúp bản thân mình. Phong trào chính trị
của giai cấp công nhân nhất định sẽ dẫn công nhân đến chỗ hiểu rằng đối
với họ, không có lối thoát nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội. Mặt khác,
chủ nghĩa xã hội chỉ sẽ là một sức mạnh, khi nó đã trở thành mục tiêu
đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân. Đó là những tư tưởng chủ chốt trong cuốn sách của Ăngghen viết về tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh”[16].
*
Có thể khẳng định rằng: Kho tàng lý luận
định hướng cho giai cấp vô sản nhận thức và hoạt động được hình thành
và phát triển trong thế kỷ XIX in rất đậm dấu ấn trí tuệ và tình cảm của
Ph.Ăngghen, kể cả trong triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã
hội khoa học. Nghiên cứu toàn bộ kho tàng lý luận ấy, V.I.Lênin đã nhận
định: Sau C.Mác, không ai khác, Ăngghen chính là nhà bác học và người
thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn
minh[17].
2. Di sản về tấm gương nhân hậu, thủy chung, khiêm nhường của Ph.Ăngghen trong cuộc sống
Sinh ra và lớn lên trong dòng tộc tư sản
lớn có sở sản xuất, cơ sở buôn bán trong và ngoài nước, Ph.Ăngghen hoàn
toàn có điều kiện sống một cuộc sống giàu sang nếu Ông nghe theo, làm
theo ý muốn của cha mình. Song, Ph.Ăngghen đã không làm như vậy bởi ngay
từ khi còn rất trẻ, Ông đã sớm nhận thấy vẻ đẹp của vùng đồi núi quê
hương Ông hoàn toàn trái ngược với cảnh khổ cực của những người thợ dệt
vải, dệt kim mà nhiều người phải tìm sự lãng quên khổ cực ấy trong các
ly rượu mạnh. Ông căm giận khi những chủ xưởng giàu có, bề ngoài ra vẻ
mộ đạo, siêng năng đi lễ nhà thờ nhưng lại bắt trẻ con làm việc cực nhọc
cả ngày để kiếm vài xu, để chúng chết dần, chết mòn cùng cha mẹ chúng
đang bị vắt kiệt sức trong các xí nghiệp. Những cảnh tượng ấy đeo bám
Ông, ám ảnh Ông suốt cả cuộc đời. Ông yêu thích Dichprit, Telơ, Phauxtơ
vì trong văn học Đức, theo Ông, đây là những nhân vật tiêu biểu cho cuộc
đấu tranh chống áp bức, những nhân vật tượng trưng cho lòng dũng cảm,
tinh thần sẵn sàng hy sinh cũng như lòng khao khát hiểu biết. Ông coi đó
là những tấm gương và dự định sẽ hướng cuộc đời của mình theo tinh thần
của họ, trung thành với lý tưởng nhân đạo và tự do mà họ đã đấu tranh
và sẵn sàng chịu đựng để đạt được nó[18].
Với lý tưởng như vậy, từng bước, từng bước Ông đến với giai cấp vô sản,
gắn bó với họ, thủy chung chiến đấu vì cuộc sống của họ cho đến những
ngày cuối cùng của cuộc đời[19].
Đối với bạn bè, tấm lòng nhân hậu, thủy
chung, khiêm nhường của Ph.Ăngghen cũng luôn mẫu mực. Quan hệ với C.Mác
và gia đình C.Mác là ví dụ điển hình. C.Mác và Ph.Ăngghen gắn bó với
nhau trước hết và quan trọng nhất vì tư tưởng, lý tưởng của các Ông
thống nhất với nhau nhưng gia cảnh của các Ông thì rất khác nhau. Từ năm
1849 cho đến năm 1883 (năm C.Mác từ trần), C.Mác và gia đình sống ở
Luân Đôn. Đây là thời gian tư tưởng về các lĩnh vực của C.Mác và
Ph.Ăngghen đã bước vào giai đoạn phát triển, nhiều lĩnh vực đã chín mùi
và sự chống phá về tư tưởng của các thế lực thù địch với giai cấp vô sản
cũng diễn ra rất khốc liệt. Việc thể hiện thành tác phẩm những tư tưởng
khoa học về cách mạng vô sản và chống các luận điểm mị dân, xuyên tạc
của các học giả tư sản là nhu cầu rất cấp thiết nhưng đây cũng lại là
thời kỳ gia đình C.Mác cực kỳ khó khăn về kinh tế. Có lúc “Các chủ hiệu
bánh mì, hiệu thuốc, hàng thịt cầm hóa đơn kéo đến tụ tập trước cửa. Mác
chạy đến hết người quen nọ, người quen kia, tất tả ngược xuôi mãi mới
vay được số tiền cần thiết”[20]. “Các đồ đạc của vợ chồng Mác lần lượt thay nhau chạy về ngôi nhà có treo ba quả cầu vàng trước cửa hiệu cầm đồ”[21].
Trong bối cảnh ấy, Ph.Ăngghen luôn là người chung lưng gánh vác cùng
C.Mác. Tháng tháng, vào những ngày nhất định, Ph.Ăngghen lại gửi tiền về
Luân Đôn cho gia đình C.Mác. “Đối với gia đình ông (gia đình Mác - Tg),
sự giúp đỡ tài chính thường xuyên của Ph.Ăngghen là sự cần thiết sống
còn”[22].
Chỉ có sự giúp đỡ đó mới cho phép Mác chịu nổi gánh nặng của cuộc đấu
tranh mệt nhọc chống lại sự thiếu thốn để hoàn thành các tác phẩm của
mình[23].
Ngay cả trước khi từ trần, trong di chúc, Ph.Ăngghen cũng không quên để
lại một phần tài sản của mình cho những người thân trong gia đình C.Mác[24].
Sự giúp đỡ của Ph.Ăngghen đối với C.Mác
không thuần túy chỉ trong lĩnh vực kinh tế. Khi C.Mác từ trần, bộ “Tư
bản” được đánh giá là bộ kinh điển mẫu mực thể hiện quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng về xã hội, được C.Mác coi là “sự nghiệp của
cuộc đời mình”[25],
mới xuất bản được tập I vào năm 1867, các tập còn ở dạng bản thảo viết
tay của C.Mác. Nếu không xuất bản thành sách, những nội dung còn lại của
“Tư bản” sẽ bị xuyên tạc. Vì lợi ích của giai cấp vô sản và cũng vì
C.Mác, Ph.Ăngghen đã dừng tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” - tác phẩm
đang chuẩn bị dang dở của mình - tập trung hơn chục năm còn lại của cuộc
đời để chỉnh lý, bổ sung nội dung và bỏ tiền của mình xuất bản được tập
II vào năm 1885, tập III vào năm 1894. Bằng việc xuất bản tập II và tập
III của bộ “Tư bản”, Ph.Ăngghen đã dựng cho người bạn của mình một
tượng đài trang nghiêm, vĩnh cửu mà trên tượng đài đó, Ph.Ăngghen không
ngờ Ông cũng đã để lại tên Ông bằng những nét vàng không bao giờ phai
nhạt[26].
Cho đến đây, lý luận của giai cấp vô sản
gồm 3 bộ phận cấu thành do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng ở thế kỷ XIX đã
hình thành trọn vẹn. Thông thường, theo truyền thống của nhân loại, tên
của các nhà phát minh sẽ được đặt cho phát minh nhưng ngay từ năm 1883 -
năm C.Mác từ trần, khi nhiều ý kiến đề xuất tên của hai người là tên
của lý luận, Ph.Ăngghen đã rất khiêm nhường bày tỏ quan điểm của mình
với nội dung là: Tôi không hề phủ nhận công lao của tôi trong 40 năm
cộng tác với Mác, nhưng những gì tôi đã làm thì không có tôi Mác vẫn có
thể làm được, còn những gì Mác đã làm thì tôi và chúng ta chưa thể nào
làm được, Mác đứng cao hơn tôi một cái đầu, nhìn xa hơn tôi một tầm, Mác
là thiên tài còn chúng ta giỏi lắm chỉ là người có tài mà thôi, tôi chỉ
xứng đáng là cây vĩ cầm thứ hai đứng bên cạnh Mác, bởi vậy học thuyết
này xứng đáng được mang tên của Mác[27].
Lý luận của giai cấp vô sản thế kỷ XIX
mang tên một người: Chủ nghĩa Mác với ba bộ phận cấu thành: Triết học
Mác, Kinh tế chính trị Mác và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Theo đề xuất
của Ph.Ăngghen, ta không thấy có tên Ông ở đây nhưng trong mỗi nét chữ,
mỗi tư tưởng của triết học Mác, kinh tế chính trị Mác và chủ nghĩa xã
hội khoa học đều có cả trí tuệ, tiền của, thời gian, sức lực của
Ph.Ăngghen trong đó mà nếu không có trí tuệ, tiền của, thời gian, sức
lực này, không thể có chủ nghĩa Mác.
*
Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Ph.Ăngghen,
chúng ta bày tỏ lòng ngưỡng mộ và tri ân sự thông thái, tấm gương nhân
hậu, thủy chung, khiêm nhường của Ông - nhà bác học, người thầy lỗi lạc
của giai cấp vô sản hiện đại. Di sản của Ông luôn là những định hướng về
trí tuệ để chúng ta nhận thức và hành động, luôn là tấm gương về phẩm
hạnh để chúng ta học tập, vận dụng, phát triển trong công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo toàn dân đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh - một xã hội mà ở đó
sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người mà cả cuộc đời của Ông đã cống hiến để mong đạt
đến./.
VÕ VĂN THƯỞNG
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng
Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương
[1] Xem: - Viện Mác-Lênin trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên xô, Friđrich Engen – Tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia Matxcơva, 1970 – Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tập 1, tr.22 - 33; - H.Ghemcốp, Cuộc đời chúng tôi - Tiểu sử Các Mác và Phriđrich Ăngghen, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 16 - 22;
[2]
Ph.Ăngghen và C.Mác gặp nhau lần thứ nhất vào tháng 12 năm 1842 khi
Ph.Ăngghen ghé thăm tòa soạn “Báo tỉnh Ranh”, lần thứ hai các ông gặp
nhau vào tháng 8 năm 1844 tại Pari.
[3] V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.2, tr.3.
[4] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2004, t.20, tr.67, tr.78, tr.89 – 97, tr.510 – 540, tr.641 – 658, v.v.
[5] Xem C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2004, t.1, tr. 784 - 786. tr.696 -698; t.20, tr.284 - 308; v.v.
[6] Xem C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2004, t.3, tr.39 - 43.
[7] Xem C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2004, t.3, tr.38.
[8] Xem C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2004, t.13, tr.8 - 18.
[9] Xem C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2004, t.1, tr. 696 - 698, tr. 747 - 786; t.4, tr.456 - 480; t.20, tr.284 – 308; v.v.
[10] V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Matxcơva, 1974, t.2, tr.9.
[11] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2004, t.20, tr.393.
[12] V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.2, tr.5.
[13] Xem C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2004, t.4, tr.591- 646.
[14] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2004, t.20, tr.388 – 389.
[15] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2004, t.20, tr.393.
[16] V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.2, tr.7 – 8; Xem thêm: Ph.Ăngghen, Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh // C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2004, t.1, tr.695 – 698; Ph.Ăngghen, Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh. Theo những sự quan sát của bản thân và những nguồn đáng tin cậy // C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2004, t.2, tr.317 – 698.
[17] Xem V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.2, tr.3.
[18] Xem H.Ghencốp, Cuộc đời của chúng tôi – Tiểu sử của Các Mác và Phriđrich Ăngghen, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội2000, tr.19 - 20; - Viện Mác-Lênin trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Friđrich Engen – Tiểu sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, t.1, tr.22 – 25.
[19]
Ngày 24/7/1895, Ph.Ăngghen bệnh nặng nên đang làm việc ở Ixtơboócna Ông
phải về Luân Đôn, ngày 28/7/1895 mặc dù bệnh rất nặng nhưng Ph.Ăngghen
vẫn tọa đàm với E.Mác-E-vơ-linh về tình hình Đảng công nhân độc lập Anh,
ngay sau đó, trong tình trạng nguy kịch, Ông phải nhập viện và từ trần
vào 10 giờ 30 phút ngày 5 tháng 8 năm 1895.
[20] L.Vitgôp – I.Axukhôtin, Tình bạn vĩ đại và cảm động, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2004, tr.171.
[21] L.Vitgôp – I.Axukhôtin, Tình bạn vĩ đại và cảm động, Nxb.Thanh niên, Hà Nội, 2004, tr.175.
[22] Viện Mác-Lênin trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Friđrich Engen – Tiểu sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, t.1, tr.375.
[23] Xem L.Vitgôp – I.Axukhôtin, Tình bạn vĩ đại và cảnm động, Nxb.Thanh niên, Hà Nội, 2004, tr.183, tr. 192; - Viện Mác-Lênin trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Friđrich Engen – Tiểu sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, t.1, tr.375.
[24] Xem Viện Mác-Lênin trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Friđrich Engen – Tiểu sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, t.2, tr.469.
[25] Xem M.M.Rođentan (Chủ biên), Từ điển Triết học, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva, 1986, tr.630.
[26] Xem V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.2, tr. 12.
[27] Xem V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.2, tr. 12; - Nhiều tác giả, Các Mác – Sức sống mùa Xuân, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1983, tr.39.
Nguồn:https://dangcongsan.vn/tieu-diem/di-san-cua-phangghen-568846.html