Là
một học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, suốt đời tận tụy
với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân, đồng chí Đỗ Mười đã có những đóng góp to lớn cho cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đồng
chí Đỗ Mười tham gia hoạt động trong Cao trào cách mạng Dân chủ, năm
1939 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1941, đồng chí bị
chính quyền thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù và bị giam tại nhà tù
Hỏa Lò, Hà Nội. Năm 1945, đồng chí vượt ngục thành công, tham gia khởi
nghĩa giành chính quyền ở Hà Đông và được cử giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy
Hà Đông.
Trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp, đồng chí giữ các chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam; Bí thư Tỉnh
ủy, kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến - Hành chính tỉnh Nam Định; Bí thư
Tỉnh ủy Ninh Bình; Khu ủy viên Khu ủy Khu III, phụ trách 2 tỉnh Ninh
Bình và Hòa Bình; Phó Bí thư Liên Khu ủy III kiêm Phó Chủ tịch ủy Ban
Kháng chiến - Hành chính Liên khu III, Chính ủy Tư lệnh Liên khu III; Bí
thư Khu Tả ngạn Sông Hồng, kiêm Chủ tịch ủy ban Kháng chiến - Hành
chính và Chính ủy Quân khu Tả ngạn Sông Hồng. Đây là những địa bàn chiến
lược trọng yếu, dưới sự chỉ huy của đồng chí Đỗ Mười, quân và dân Quân
khu Tả ngạn đã làm thất bại nhiều chiến dịch quân sự của địch, trong đó
có trận tập kích vào sân bay Cát Bi, Hải Phòng, đốt cháy hàng chục máy
bay địch, góp phần vào thắng lợi của dân tộc.
Sau
ngày hòa bình lập lại, đồng chí Đỗ Mười được phân công giữ nhiều chức
vụ lãnh đạo, đứng đầu nhiều cơ quan Bộ, Ngành và Chính phủ. Trên cương
vị Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trong hơn 20
năm (1965-1986), đồng chí được giao phụ trách nhiều công việc quan
trọng: Chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; giải toả thủy lôi Cảng
Hải Phòng; Trưởng Ban chi viện cho miền Nam; trên các công trường trọng
điểm của Nhà nước... nơi nào đòi hỏi sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời là
đồng chí có mặt.
Sau chiến thắng mùa
Xuân 1975, cả nước thống nhất, cùng với niềm vui khải hoàn dân tộc, là
những khó khăn bộn bề sau cuộc chiến. Tiếp đó là hệ quả nặng nề của
cuộc tổng điều chỉnh giá – lương – tiền (tháng 10-1985); những bất cập
trong quản lý kinh tế - xã hội, trong chính sách đối ngoại… tác động
mạnh đến mọi mặt của đời sống xã hội. Sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu
tiêu dùng, phải sử dụng nguồn vốn vay và viện trợ của nước ngoài bù đắp
một phần cho tiêu dùng. Là một nước nông nghiệp, sản xuất lúa gạo, nhưng
lương thực không đủ ăn, lạm phát trầm trọng, đời sống của nhân dân hết
sức khó khăn. Những hạn chế trong cơ chế quản lý kinh tế đã kìm hãm tính
năng động, sáng tạo của người dân, cơ sở sản xuất. Nhiều xí nghiệp quốc
doanh và hợp tác xã tiểu, thủ công nghiệp đình đốn, thua lỗ, thậm chí
phải đóng cửa; số lượng lớn công nhân thất nghiệp. Hiệu lực quản lý Nhà
nước sút kém. Những hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội và dòng người di
tản ra nước ngoài tiếp tục gia tăng, gây nhiều khó khăn về kinh tế - xã
hội, làm xáo động nhân tâm và là cái cớ để các thế lực phản động chống
Việt Nam dưới chiêu bài “nhân quyền”, “dân chủ”, “tự do”.
Tình
hình đất nước đặt ra cho những người cộng sản Việt Nam phải giải quyết
thách thức của lịch sử: “Đổi mới hay là chết”. Trên cương vị Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng (từ tháng 9 năm 1988 đến tháng 6 năm 1991), đồng chí
Đỗ Mười đã cùng tập thể Bộ Chính trị, đứng đầu là cố Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh xây dựng đường lối đổi mới, đưa ra những quyết sách mang tính
bước ngặt: Chống lạm phát; Xóa bỏ bao cấp về kinh doanh lương thực, xuất
khẩu, chính sách thuế, thay đổi giá và tỷ lệ giá hối đoái, tính lại
tiền lương, quy định lãi suất ngân hàng...
Thực
hiện chủ trương của Đảng, đồng chí Đỗ Mười lãnh đạo Hội đồng Bộ trưởng
chỉ đạo triển khai quyết liệt nhiệm vụ chống lạm phát, tăng cường sản
xuất và khai thác mọi nguồn hàng phục vụ tiêu dùng, cải thiện đời sống
nhân dân; từng bước đổi mới cơ chế kế hoạch hóa, tạo quyền chủ động cho
các cơ sở sản xuất, khai thác mọi tiềm năng, đi dần vào hạch toán kinh
doanh, gắn sản xuất với thị trường; điều hòa cung cầu ở tầm vĩ mô.
Để
chống lạm phát, có nhiều ý kiến đưa ra để Chính phủ xem xét, áp dụng.
Theo Tổ chức Tiền tệ quốc tế (IMF) tính toán, phải có ba tỷ đôla mới
giải quyết được lạm phát. Ba tỷ đôla lúc bấy giờ chúng ta lấy đâu ra?
Đồng chí Đỗ Mười chỉ đạo: Chỉ có biện pháp duy nhất là phát huy nội lực,
dựa vào dân, động viên nhân dân bằng lợi ích, để tạo ra những tiềm năng
mới, đó cũng là tư tưởng của Bác Hồ: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu;
Khó vạn lần dân liệu cũng xong". Hội đồng Bộ trưởng đi đến thống nhất
mấy vấn đề cần phải tập trung giải quyết và báo cáo Bộ Chính trị:
Trước
hết, là đẩy mạnh sản xuất, thực hiện tiết kiệm và dồn trọng tâm chỉ đạo
phát triển nông nghiệp; đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế khoán hộ. Kết
quả làm cho sản xuất bung ra, giải quyết được căn bản vấn đề lương thực.
Hai
là, khai thác mọi nguồn hàng trong nước và ngoài nước. Một giải pháp
tình thế lúc bấy giờ là, ai ra nước ngoài thì khuyến khích mang hàng về.
Nhà nước không đánh thuế. Vì thế, chỉ trong một thời gian ngắn, hàng về
rất nhiều, phần nào đáp ứng được yêu cầu bức thiết trong sinh hoạt của
nhân dân. Nhưng đó chỉ là giải pháp tạm thời, để giải quyết tận gốc nạn
khan hiếm hàng hóa tiêu dùng, phải tăng cường vận động nhân dân sản
xuất, Nhà nước có các chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất.
Ba
là, để thu hút tiền ở trong dân, Chính phủ chủ trương nâng lãi suất
tiết kiệm từ 3% lên 9%, ngang với mức giá của hàng hóa; ai gửi ba tháng
thì thêm 3% nữa là 12%. Lúc đầu đồng chí cho làm thí điểm ở Hải Phòng,
sau đó nhân rộng ra cả nước. Do có chính sách khuyến khích tiền gửi,
nhân dân yên tâm gửi tiền vào ngân hàng, tạo ra nguồn vốn phục vụ sản
xuất.
Về phía Ngân hàng Nhà nước,
Chính phủ quy định nghiêm ngặt Ngân hàng chỉ được nhận tiền mặt và cho
vay, tài chính chỉ thu mà chi, không in thêm tiền. Sau một thời gian,
các chính sách kinh tế và tiền tệ của Chính phủ đã phát huy hiệu quả,
đặc biệt là giảm lạm phát, từ chỗ lạm phát ba con số: 774% năm 1986,
giảm xuống còn hai con số: 34% năm 1989; đến năm 1992 chỉ còn 14%.
Cùng
với chống lạm phát, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười đề nghị Bộ
Chính trị và Trung ương đồng ý chủ trương xóa bỏ bao cấp, xóa bỏ ngăn
sông cấm chợ, đưa hai giá về một giá.... Đó là những vấn đề quan trọng,
là cơ sở thực tiễn để Đảng ta đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và Chiến lược kinh tế -
xã hội 10 năm (1991-2000). Cương lĩnh của Đảng khẳng định: “Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng” và
“làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ
vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội”. Đó là những quan điểm,
đường lối đúng đắn, thể hiện trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân ta, trong
đó sự đóng góp hết sức quan trọng của đồng chí Đỗ Mười. Đồng chí đưa ra
chủ trương phát triển mạnh mẽ công nghiệp nặng, tiến tới công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Tháng
6 năm 1991, khi đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng ta
cũng là lúc Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, làm cho
một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mang, dao động, sụt
giảm niềm tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tình hình kinh tế -
xã hội của đất nước lúc này tuy đã được cải thiện một bước, nhưng vẫn
đầy rẫy những khó khăn. Nền kinh tế vẫn còn mất cân đối về nhiều mặt,
phát triển chậm. Ngân sách bội chi lớn; giá cả bấp bênh. Nhiều tổ chức
tín dụng ngoài quốc doanh bị vỡ nợ. Lao động thiếu việc làm, đời sống
của một bộ phận dân cư gặp rất nhiều khó khăn. Văn hóa, xã hội nhiều yếu
kém, tệ tham nhũng, tiêu cực lan tràn, trật tự an toàn xã hội rất phức
tạp. Tình hình thế giới diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch ra sức
tuyên truyền chống phá, ảnh hưởng bất lợi đến nước ta.
Trên
cương vị Tổng Bí thư, đồng chí đã cùng tập thể Bộ Chính trị lãnh đạo
giữ vững ổn định chính trị, kiên định lập trường tư tưởng trong cán bộ,
đảng viên và nhân dân; kiên quyết đi theo con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Để tháo gỡ khó khăn, tiếp tục công
cuộc đổi mới, phát triển đất nước, Bộ Chính trị xác định nhiệm vụ quan
trọng nhất lúc này là phá thế bao vây cấm vận, bình thường hóa quan hệ
với Trung Quốc và Mỹ; chủ động gia nhập ASEAN, mở rộng quan hệ với các
nước trong cộng đồng quốc tế.
Thực
hiện trọng trách cao cả đó, từ ngày 5 đến 10-11-1991, nhận lời mời của
lãnh đạo Đảng, Nhà nước Trung Quốc, đồng chí Đỗ Mười dẫn đầu đoàn đại
biểu cấp cao của Đảng, Nhà nước ta sang thăm chính thức Trung Quốc. Kết
thúc chuyến thăm, hai bên đã ra Thông cáo chung khẳng định: “Cuộc gặp
cấp cao Việt - Trung đánh dấu sự bình thường hoá quan hệ Việt Nam và
Trung Quốc phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của nhân dân hai nước
và có lợi cho hoà bình và sự phát triển của khu vực”. Đây là thành tựu
ngoại giao có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của nước ta kể từ khi bắt đầu
thực hiện đường lối đổi mới.
Sau sự
kiện bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, đồng chí đã chỉ đạo tích
cực phối hợp với phía Mỹ giải quyết vấn đề quân nhân Mỹ mất tích. Với
tinh thần nhân văn theo truyền thống của dân tộc, để “khép lại quá khứ,
hướng tới tương lai”; “vì hòa bình, ổn định, cùng phát triển”, Việt Nam
đã khiến phía Mỹ phải ghi nhận sự thiện chí, trên cơ sở đó, ngày
11-7-1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã tuyên bố chính thức bình thường
hoá quan hệ với Việt Nam. Đây là dấu mốc đặc biệt quan trọng, đánh dấu
việc nước ta đã phá vỡ hoàn toàn thế bị bao vây, cấm vận. Từ đây, đất
nước có điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ được
các nguồn lực bên ngoài trong công cuộc chấn hưng đất nước. Quan điểm
chỉ đạo của đồng chí Đỗ Mười: "Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với
tất cả các nước trên thế giới" đã được triển khai bằng những hoạt động
tích cực, sôi động trên lĩnh vực ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân
dân, đưa lại hiệu quả to lớn cho đất nước. Không chỉ phá vỡ thế bao vây
cấm vận, mà Việt Nam còn thiết lập nhiều mối quan hệ hợp tác với các đối
tác trên cơ sở song phương và đa phương. Đó là thắng lợi hết sức quan
trọng trên mặt trận ngoại giao, tạo tiền đề cho sự hợp tác toàn diện của
đất nước ta với cộng đồng quốc tế, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, vững bước trên con đường hội nhập và phát triển.
Gần
hai khóa làm Tổng Bí thư, đồng chí Đỗ Mười cùng tập thể Bộ Chính trị
giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng trong lãnh đạo, điều hành đất nước.
Nhiều đề xuất của cá nhân đồng chí như việc triển khai xây dựng “Quy chế
dân chủ ở cơ sở”; “Phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam
anh hùng”... đều xuất phát từ thực tế khi đồng chí tiếp xúc với đồng
bào, đồng chí hoặc các nhà lãnh đạo, chính khách nước ngoài; xuất phát
từ nhiệt huyết, trí tuệ và tấm lòng vì nước, vì dân, những sáng kiến đó
được nhân dân và bè bạn mãi mãi ghi nhớ.
Trên
80 năm hoạt động và phấn đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp cách mạng của
dân tộc và lý tưởng cộng sản cao đẹp, đồng chí Đỗ Mười đã có những đóng
góp to lớn cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Là một học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đồng chí suốt đời tận tụy với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng hết sức
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Dù ở bất cứ cương vị công tác nào,
đồng chí đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đồng chí là tấm
gương sáng về đạo đức cách mạng, năng lực làm việc, tư duy nhạy bén,
sáng tạo và kiên định lý tưởng cộng sản, với niềm tin mãnh liệt vào sự
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và tương lai tươi sáng của đất nước. Đồng
chí là một cán bộ lãnh đạo mẫu mực, luôn tuân thủ kỷ luật của Đảng;
sống trung thực, giản dị, gần gũi, hòa đồng với quần chúng; tôn trọng và
lắng nghe ý kiến của đồng chí, của nhân dân. Với những hoạt động và
cống hiến đối với Đảng, cách mạng và dân tộc, đồng chí Đỗ Mười đã được
Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huân chương Sao
Vàng, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng cùng nhiều Huân, Huy chương cao quý
khác.
Tháng 12-1997, tại Hội nghị lần
thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, sau 70 năm hoạt động cống
hiến liên tục cho Đảng, cho cách mạng, đồng chí Đỗ Mười đã xin không
tiếp tục tham gia Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII. Trung ương đã chấp
thuận ý nguyện của đồng chí và đã suy tôn đồng chí làm Cố vấn Ban Chấp
hành Trung ương Đảng.
Trong suốt cuộc đời hoạt động và cống hiến cho
Đảng, cho dân, đồng chí luôn thể hiện là người của hành động, luôn có
mặt ở nơi đầu sóng ngọn gió, những nơi khó khăn ác liệt nhất, mạnh dạn,
táo bạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước nhân
dân, trước Đảng, luôn đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc lên trên
hết, trước hết. Suy nghĩ và việc làm của đồng chí luôn thể hiện sự trăn
trở của một công dân, của một nhà lãnh đạo, người đứng đầu của Đảng đối
với sự nghiệp của đất nước, kể cả khi đã nghỉ hưu, sức khoẻ đã yếu. Đồng
chí chưa bao giờ bằng lòng với những gì đã làm được, không say sưa, ngủ
quên với những thắng lợi mà luôn tìm tòi theo cách nghĩ khám phá, sáng
tạo. Mỗi khi nhắc tới cuộc đấu tranh đầy hy sinh gian khổ, khó khăn,
phức tạp vì độc lập, tự do của Tổ quốc, đồng chí coi đó là sự hy sinh
của Đảng, của dân, điều đó chứng tỏ dân hết mình vì Đảng, giờ đây, Đảng
phải làm gì cho dân để đáp lại sự hy sinh to lớn và vô giá đó của dân.
Đồng
chí Đỗ Mười luôn day dứt về nguy cơ tụt hậu của đất nước; về sự tăng
trưởng dưới tiềm năng và vấn đề tận dụng cơ hội để bứt phá. Với tầm nhìn
xa, tư tưởng nhân văn, đoàn kết, hòa hợp để chủ động khép lại quá khứ
chiến tranh và hướng tới tương lai. Đó là tầm nhìn trong kỷ nguyên toàn
cầu hóa, đòi hỏi ý thức, cách làm của mỗi người phải tâm huyết, trí tuệ,
bản lĩnh, đạo đức, nhân cách và phong cách của người cộng sản chân
chính với nhận thức rõ về kết hợp sức mạnh của thời đại và dân tộc. Theo
đồng chí Đỗ Mười, đổi mới là sáng tạo, là biết khai thác, phát huy thế
mạnh của đất nước, dân tộc, lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam, vượt
qua những trở lực về tư duy cũ kỹ, lạc hậu và phong cách lãnh đạo quan
liêu, đem lại chất lượng cao cho công cuộc đổi mới và chủ nghĩa xã hội.
Đồng chí Đỗ Mười là người luôn sát dân, sát cơ sở. Tháng 3/1989, khi
biết tin Hợp tác xã nông nghiệp Duy Sơn II, tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng làm
được thuỷ điện với công suất nhỏ (0,4MW) vào thời điểm đất nước đang
thiếu điện, đồng chí đã đến tận nơi, ra tận công trường nơi núi cao để
thăm hỏi, động viên người lao động và bàn cơ chế hỗ trợ. Khi làm Bí thư
Thành uỷ Hải Phòng, nghe tin Trường học sinh miền Nam ở đây gặp nhiều
khó khăn, xa cha mẹ, xa gia đình, đồng chí đã quyết định cấp thêm gạo,
quần áo, chăn ấm để các em ăn no, mặc ấm. Những học sinh miền Nam học
tập tại Hải Phòng mãi mãi ghi nhớ hình ảnh đồng chí Đỗ Mười, người lãnh
đạo có tấm lòng nhân hậu.
Xuất phát
từ tấm lòng yêu nước, trọng dân, thương dân, lòng tự hào dân tộc sâu
sắc, đồng chí Đỗ Mười chủ động đến với nhân dân để hiểu dân, học dân,
hỏi dân, bàn bạc với dân và tìm ra cách làm có hiệu quả nhất. Không giáo
điều, rập khuôn, máy móc; miệng nói tay làm, nói ít làm nhiều, lấy hiệu
quả làm thước đo, đồng chí Đỗ Mười đã làm đúng tinh thần lời dạy của
Bác Hồ, người cán bộ khi nhận nhiệm vụ: “do nhân dân ủy thác thì phải
gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước
mặt trận”.
Tấm gương cống hiến và hy
sinh hết mình cho đất nước, cho nhân dân của đồng chí Đỗ Mười mãi mãi
sáng ngời. Tên tuổi của đồng chí đã và sẽ trở thành tượng đài sống mãi
trong lòng mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam./.