HOÀNG ĐÌNH BƯỜNG/
Tập thơ Điểm danh tôi viết tại chiến trường Trị Thiên (1972 - 1975) hầu hết tặng cho đồng đội và bạn bè sinh viên hai lớp 10C và 14B khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh, nơi tôi học trước và sau khi rời quân ngũ.
Tôi lớp người cũ. Thơ tôi cũ, độc giả của tôi cũng… cũ, chủ yếu là những
cựu chiến binh về hưu thường trà, cà phê sáng với tôi. Được nhiều người
cùng thời đọc thơ, trao đổi tâm sự, vậy là quá sướng. Trong số thơ của
tôi, bài
Tiếc thương Lê Ngọc Sỹ được nhiều người chú ý và hay hỏi về hoàn cảnh ra đời.
Vượt qua dốc Răng Cưa
Nào ngờ Lê Ngọc Sỹ
Giữa chiều đông quạnh quẽ
Bạn nằm lại bên đường
Pháo giặc bắn điên cuồng
Đường hành quân nghẽn lối
Mưa cứ rơi não nùng
Rưng rưng tình đồng đội
Mưa rơi càng nặng hạt
Gió quất lạnh tê người
Sỹ vẫn nằm giữa dốc
Cánh rừng rách tả tơi
Hướng đồng bằng về xuôi
Sỹ một mình nằm lại
Thấm đẫm lệ đất trời
Giữa ngày đông tê tái
Có ai nhắn dùm tôi
Nơi quê nhà Thanh Hóa
Miền Yên Định xa xôi
Mẹ già như chiếc lá.
Lê Ngọc Sỹ quê Yên Định, Thanh Hoá, học giỏi toàn diện, được tuyển thẳng
vào lớp chuyên Toán, Đại học Sư phạm Vinh. Nhưng vốn ham mê đọc sách
văn chương, lịch sử, Sỹ quyết định thi và trúng tuyển vào khoa Sử.
Rồi Sỹ đã khiến gia đình và bạn bè ngạc nhiên khi viết đơn tòng quân
cùng với 250 sinh viên Đại học Sư phạm Vinh, trong đó có tôi.
Tôi được biên chế cùng Tiểu đội 6, Đại đội 43 cùng Sỹ. Dáng người hơi
thấp, da ngăm đen, chắc đậm, Sỹ vui tính, hay cười để lộ chiếc răng
khểnh rất có duyên. Trên đường Trường Sơn, tôi với Đậu Thành Ý, người
thành phố Vinh và Lê Ngọc Sỹ cùng tổ “tam tam”. Những ngày tổ được giao
nhiệm vụ nấu cơm cho tiểu đội, mọi việc nặng nhọc như mang vác củi, gùi
cõng nước..., Sỹ đều giành làm. Khi hành quân, lúc nào Sỹ cũng vượt lên
trước rồi ngoảnh lại động viên mọi người: Cố lên, sắp đến binh trạm rồi!
Vào tới Thừa Thiên, chúng tôi được bổ sung về các đơn vị chiến đấu ngay.
Cuộc chiến Thành Cổ đang hồi giành giật quyết liệt, đạn bom ngút trời,
khói lửa mù mịt. Đơn vị tôi được lệnh liên tục mở các đợt tấn công vào
Sư đoàn 1 địch trên nhiều hướng, buộc chúng phải dàn quân chống đỡ,
không thể tập trung chi viện cho Quảng Trị. Đánh rồi chốt. Mất chốt lại
đánh. Chúng tôi di chuyển và tác chiến trên một địa bàn khá rộng từ Bắc
Thừa Thiên đến phía tây Thành Huế.
Tôi và Sỹ đã sát cánh với nhau nhiều trận. Sỹ chiến đấu rất khôn ngoan.
Trong trận tấn công đồi Sơn Na, đơn vị tôi đã chiếm giữ được Mỏm 2, còn
Mỏm 1 địch vẫn cố thủ. Quả đồi bị chia hai, ta một nửa, địch một nửa,
giữa là sân bay dã chiến. Đồi trọc lóc, nắng chói chang nhuộm chúng tôi
đen như những thân củi cháy. Trong điều kiện chưa kịp đào công sự, địch
phản kích liên tục, Sỹ ôm một khẩu B40, tôi một khẩu B41, hai thằng cơ
động thoăn thoắt, cứ nương bám theo mấy gốc cây to mà phụt đạn, đẩy lui
hàng chục đợt tấn công hòng tái chiếm Mỏm 2 của địch.
Giữa
tháng 7 năm 1972, chúng tôi nhận nhiệm vụ tác chiến ở một cao điểm
khác. Khi hành quân qua khe Tà Vệ thì đơn vị bị B52 rải thảm. Thương
vong trên hai mươi người. Sỹ và tôi may mắn không việc gì, tiếp tục
chiến đấu bên nhau trên các cao điểm từ Nam sông Mỹ Chánh đến phía tây
thành phố Huế.
Trưa ấy, đơn vị tôi lên tận dãy Răng Cưa. Dãy núi gồm mười hai đỉnh cao
trên nghìn mét nối Bạch Mã với Hải Vân, các mỏm núi lô nhô như lưỡi cưa
khổng lồ lật ngược, bề ngang có nơi chỉ rộng không quá mười mét, đá lởm
chởm, sườn dốc đứng. Phía Đông là đèo Phước Tượng, đèo Phú Gia. Xa hơn
tí nữa là đầm Cầu Hai và biển. Đó là thông tin từ chỉ huy, còn trên thực
tế chúng tôi chẳng thấy gì cả bởi mây mưa luôn phủ kín một màu trắng
xóa. “Rừng che bộ đội” nhưng rừng núi và mây mưa cũng gây bao khó khăn
trở ngại.
Về chiều, đói và rét bắt đầu tấn công, trạm dừng chân chưa tới, chúng
tôi vẫn đi lầm lũi. Do hành quân dài ngày trong điều kiện ẩm ướt, lính
bị hắc lào đạt tỉ lệ tuyệt đối. Vùng nhạy cảm ngứa ran, ai cũng luôn tay
sột soạt. Đói và mệt, những cơn sốt rét có cơ bùng phát. Lê Xuân Đồng
và Lê Khắc Duy mắt trắng dã lờ đờ, đầu gối to hơn đùi, dùng gậy chống ba
lô nghỉ tự do, im như tượng bên đường. Tôi bươn lên trong tiếng thở hổn
hển nhưng chỉ đủ sức liếc nhìn, không nói được câu nào với bạn. Lê Ngọc
Sỹ cũng đang trong tình cảnh đuối sức, da mai mái như đồng bào dân tộc
Cơ Tu ở Nam Đông - Khe Tre. Dẫu vậy, Sỹ vẫn đi đầu đội hình.
Bỗng ầm ầm ầm… Pháo ngoài biển bắn vượt qua đỉnh núi, nổ ở sườn phía Tây
dãy Răng Cưa. Mặc, vẫn tiếp tục hành quân. Bề ngang dãy núi quá hẹp,
pháo khó bắn trúng, chúng tôi tin thế. Nhưng mươi phút sau nhiều quả
pháo đã nổ ngay trên đỉnh, phía trước đội hình, cành cây, đất đá bay tứ
tung, rụng rào rào. Chúng tôi nháo nhào tìm nơi trú ẩn. Nhưng đỉnh núi
chỉ có mấy gốc cây to, không có tảng đá lớn nào để ẩn nấp. Nhiều chiến
sĩ bị thương. Nhẹ thì rên rỉ. Nặng thì giãy dụa, la hét. Một số hi sinh,
trong đó có Lê Ngọc Sỹ. Sỹ nằm ở tư thế nghiêng, chân duỗi chân co, tay
vờn ra phía trước, máu trộn mưa loang đỏ đẫm xung quanh. Mưa dội, gió
quất rát mặt cả người sống và người chết. Nhưng chúng tôi không được
phép dừng.
Vừa dứt đợt pháo, lệnh vượt nhanh! Chúng tôi dồn hết sức tàn chạy hộc
tốc, được một quãng đã nghe đợt pháo tiếp theo trùm ngay sau lưng. Nhưng
tôi vẫn ngoái nhìn, kịp thấy mấy chiến sĩ cứu thương bị pháo “ghì” nằm
bẹp dí trong tiếng nổ xé trời.
Đêm xuống, đơn vị được lệnh dừng chân ở sườn Đông, nơi có thể nhìn thấy
ánh đèn pha ô tô, xe máy lấp loáng trên Quốc lộ 1. Đến lúc này tôi thực
sự cảm thấy bải hoải, rã rời. Nếu như mọi lần tôi đã tranh thủ ngủ một
giấc ngắn lấy sức. Còn lần này...
Tôi nằm trong võng nghe mưa xối xuống mái tăng mà nghẹn ngào. Nhóm chiến
sĩ làm công tác chính sách đêm nay chắc phải lưu lại trên đỉnh, ngày
mai họ mới có thể mang thương binh tử sĩ quay trở lại miền Tây. Tưởng
tượng cảnh Lê Ngọc Sỹ và các đồng đội đã hi sinh của tôi vẫn phải trần
mình trong mưa lạnh, lòng tôi đau như cắt. Tôi đếm thầm trong đầu và
giật mình. Vậy là số lính sinh viên của đơn vị tôi đã hi sinh quá nửa.
Một cơn đau trào lên trong tôi. Nhưng đúng lúc ấy những câu thơ bi tráng
của Quang Dũng “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất” vọng về đã khiến tôi cắn
răng kìm cơn khóc.
Tôi rời võng bước ra ngoài. Mưa vẫn rưng rưng rơi. Tôi ngửa mặt nhìn về
phía đỉnh Răng Cưa, rồi lại quay nhìn bốn phía. Giữa trời đêm đen đặc,
tôi bỗng nhận ra ánh đèn mờ ảo hắt lên từ phía Vọng Hải Đài. Tôi nhớ lời
thông báo về tình hình địa bàn của chỉ huy lúc đơn vị dừng chân, đó là
khu biệt thự xây từ thời Pháp thuộc trên đỉnh Bạch Mã cao 1.440m, nay
được dùng làm nơi nghỉ dưỡng cho sĩ quan Mĩ - ngụy. Trong tôi bỗng trào
lên một cơn đau khó tả. Kẻ thù đang ngủ ngon trong ấm áp xa hoa... Còn
Lê Ngọc Sỹ và các đồng đội đã hi sinh của tôi thì đang phơi thây trong
giá lạnh...
Và đầu tôi vang lên những câu:
...Vượt qua dốc Răng Cưa
Nào ngờ Lê Ngọc Sỹ
Giữa chiều đông quạnh quẽ
Bạn nằm lại bên đường
... Mưa rơi càng nặng hạt
Gió quất lạnh tê người
Sỹ vẫn nằm giữa dốc
Cánh rừng rách tả tơi...
Tôi đã chép lại y nguyên những câu thơ trào ra từ huyết quản, hòa trộn nước mắt đau thương của tôi năm ấy đem in vào tập
Điểm danh mà
không hề sửa chữa nên nó có phần thô mộc. Nhưng có lẽ chính điều ấy lại
phản ánh đúng tâm trạng người lính trong sự khốc liệt của chiến tranh
nên được những cựu chiến binh đồng cảm?
H.Đ.B
Nguồn: vannghequandoi.vn