Trước năm bảy mốt, thị trấn tôi chưa có cây cói. Sau người ta xây đập ngăn sông trữ nước cho thủy điện, cánh rừng nguyên sinh như lá phổi xanh chợt thủng một lỗ, nước cạn, cá trong dòng sông chết trắng ởn, mùi hôi tanh nồng nặc, đất quanh hồ lúc nào cũng úng nước, nuốt rừng mục ruỗng vào lòng rồi thành đầm lầy. Cây cối chết, lúa và hoa màu cũng không sống nổi, nơi ấy giống như một vết thương hở giữa lòng rừng nhiệt đới từng một thời không ai chạm tới. Rồi người ta mang cây cói đến. Cói được trồng quanh hồ để giữ đất không sạt lở, rồi cói được gặt về làm đồ đạc, giường chiếu.
Và cói đã trở thành một phần không thể thiếu của thị trấn.
*
* *
Cho
tới rất lâu về sau, mỗi lần ngoài trời đổ mưa, chẳng cứ những cơn mưa
rào xối xả trắng xóa trời đất hay những cơn mưa phùn rả rích làm khung
cảnh lạnh ẩm, tôi lại trở về với cánh đồng cói trong tâm tưởng.
Dù
lúc đó tôi đang đi giữa đường giờ tan tầm đông người qua lại, đang đứng
bên vỉa hè của một con phố Hà Nội nhếch nhác, đang ngồi trong căn phòng
thuê trọ nhìn ra ô cửa sổ chỉ nhỏ bằng cỡ bức tranh Đông Hồ, bất kể là
đang làm gì, chỉ cần chớp mắt làm khung cảnh gãy đoạn, tôi sẽ về với mê
cung màu xanh lá cây của mình, nhìn xuống hai cánh tay, thấy chi chít
những vết xước dài đỏ vì bị hoa cói cứa vào. Và cả mùi hăng nhẹ ấy, mùi
cói tươi, cái mùi hơi mơ màng, ngai ngái, mà nhạt đến nỗi phải bẻ thân
cây ra đưa lên mũi ngửi mới thấy, cái thứ mùi tôi cứ ngỡ nhiều năm rồi
đã gọt rửa không còn dấu vết, lại bất chợt ngửi thấy vào một giây phút
bất chợt, trong lòng sững sờ.
Tất cả vẫn còn nguyên đây…
Những cây
cói cao hơn đầu người mơn mởn mọc sáp rạp với nhau dày đậm, che khuất
tầm nhìn, để người ta lạc giữa một màu xanh nhức nhối, dẫu có dùng tay
gạt đi biết bao nhiêu là bụi cói thì hết lớp này vẫn là một lớp khác.
Không
có thứ cây nào lại kì lạ thế, suốt đời đâu ai chăm bẵm, lớn lên như
thổi, vừa mới cắt sạch hôm trước, bẵng đi một cái lứa mới đã lớn đến
ngang bụng. Tôi chỉ thấy cói yếu đuối vào duy nhất những ngày bão nhiệt
đới, gió thổi thốc thổi tháo, cói nằm rạp xuống đất tả tơi, ngập trong
bùn đất. Đầm cói trước đó còn xanh mởn giờ chỉ còn là một hồ nước xám
xịt, trống vắng.
Rất nhiều lần, tôi nghĩ lũ sẽ cuốn phăng cánh đồng
cói đi, như đã đang và sẽ cuốn theo rất nhiều thứ ở cái huyện bé nhỏ ấy.
Lũ mùa mưa miền núi tợn vô cùng, dẻ đồi sạt ngang vào dòng chảy, nhà
cửa tan thành từng mảnh mà trôi đi. Lũ nuốt tất thảy không tha gì, kể cả
con người. Vậy thì cớ sao cói vẫn sống sót? Sau những trận lũ kinh
hoàng nhất, đồng cói sẽ là thứ đầu tiên đứng thẳng và xanh trở lại. Thân
cói ngậm nước nở ra, đọt non lên cả hàng chục phân hiên ngang như chưa
từng tổn thương vì bão. Mẹ tôi bảo, thế nên cánh đồng cói mới đang ngày
càng rộng ra, thêm mênh mông, thêm hoang hoải, ngoài cói ra chẳng có
loại cây nào sống nổi với sự khắc nghiệt của thiên nhiên như vậy. Đôi
lúc tôi nghĩ mình ngưỡng mộ, nhưng đôi lúc tôi lại nghĩ mình khiếp sợ
một sức sống quá mức mãnh liệt đến thế.
Và thường cuối tháng tám, cuối mùa mưa, là lúc người ta gặt cói.
Tâm
tưởng trở về một mùa cói thật lâu rồi, khi tôi mới chỉ hơn mười tuổi,
những cơn bão khủng khiếp nhất đã qua đi, mưa tan gần hết, chỉ còn lại
chút ướt át, dịu dàng. Tôi ngồi ở giữa con thuyền lá, mẹ chèo vào đồng
cói bằng con mương nhỏ chạy xiên qua đầm đến tận hồ. Vào mùa khô, đôi
khi con mương cạn nước, nhưng thời gian này trong năm thì lúc nào cũng
xuôi dòng cả.
“Chỉ hai ngày nữa là gặt cói được”.
Mẹ tôi cắt một cành, tước thân cây ra xem rồi nhận xét.
Từ
ngày thủy điện xây xong, dòng người dưới xuôi lũ lượt lên xây dựng vùng
kinh tế mới rồi tạo thành thị trấn này. Ngoài đào vàng và đá đỏ, chúng
tôi còn thêm nghề làm chiếu cói. Vậy nên đứa nhỏ năm sáu tuổi đã biết
quý cây cói rồi. Tôi cũng biết theo mẹ đến nhà máy dệt cói mỗi hè, làm
mấy công việc lặt vặt từ sáng đến chiều, kiếm đủ tiền sách vở cho năm
học mới. Thành ra, trong những ấn tượng sớm nhất mà tôi có, mùa cói
giống như một bức tranh màu nước, hơi loang lổ, nhưng rực rỡ vui tươi.
Tôi nhớ mình thích vô cùng cái không khí rộn rã tấp nập xua tan đi sự ảm
đạm của một thị trấn nhỏ thường thấy, đa số phụ nữ đều làm công việc
bán thời gian ở nhà máy, mọi người có dịp tụ tập, vừa làm vừa nói đủ thứ
chuyện trên đời. Chiều nào trên con đường cắt ngang thị trấn để về nhà,
tôi nhìn đâu cũng thấy đủ sắc của một phổ màu, từ bầu trời hoàng hôn
ráng đỏ, những ngôi nhà lợp mái cọ quét vôi màu đất đến con đường phủ
đầy cói đang phơi dở, dẫm lên vừa mềm vừa xốp, chẳng biết là cói vàng
hay nắng muộn vàng, ấm áp vô cùng.
“Hai mẹ con có cần tôi trở về không?”.
Mùa cói năm ấy, trên đường về nhà vào một hoàng hôn nào đó, đã có người cười đùa hỏi chúng tôi như vậy.
Mẹ vẫn dắt tay tôi, mắt nhìn thẳng, chân bước nhanh, còn tôi thì tò mò ngoảnh đầu lại nhìn…
Từ
mạn đông thị trấn nơi có nhà máy đi bộ về mạn tây nơi có căn nhà gỗ của
chúng tôi nằm tách biệt trên một quả đồi, khoảng cách vừa đủ để mặt
trời từ đỉnh lặn về sau núi. Vạt nắng vàng óng cuối cùng kéo bóng hai mẹ
con thật dài rộng in trùm lên những búi hoa đồng nội mọc dại ven đường.
Trời sẽ ngả tím xám và côn trùng sẽ bắt đầu kêu.
Tôi mở cửa, bật đèn ngoài sân rồi nhóm bếp nấu cơm. Mẹ tôi tính lặng lẽ, tôi cũng ít lời, nhìn thế nào bữa cơm cũng ảm đạm.
“Sắp khai giảng chưa?”. Mẹ hỏi.
“Tuần sau ạ!”. Tôi đáp.
Vậy thôi.
Khi
tôi rửa bát là lúc mẹ tắm. Trăng sắp rằm sáng vô cùng, chầm chậm soi
hơi nước thơm mùi trà xanh tỏa lên nghi ngút theo những gáo nước trượt
dài trên thân thể một người phụ nữ vừa mới ba mươi. Trăng càng sáng tôi
càng thấy rõ làn da mẹ trắng mịn. Trăng thì lạnh mà hơi thở mẹ thì ấm.
Mái tóc mẹ tôi dài đen tuyền, dính bết lên lưng, chớm chạm đến hông,
dính cả lên hai bầu ngực.
Tôi chẳng bao giờ đẹp được như mẹ, ngay cả
sau này, khi vào độ tuổi rực rỡ nhất trong đời. Ướt át, êm đềm… Và đôi
mắt với hàng mi lúc ngước lên thì đủ ngây dại, lúc rũ xuống lại chan
ngập một nỗi buồn kín đáo.
Vẻ đẹp ấy đã ám ảnh tôi, bất kể mẹ làm gì.
Tắm rửa, giặt giũ hay chỉ đơn giản thôi, ngồi một mình yên lặng ngoài
hiên vào một chiều mưa xám xịt. Giờ tôi biết, những kí ức sâu đậm nhất,
hóa ra lại là những hình ảnh đơn giản nhất. Mẹ tôi trầm lặng khiến tiếng
mưa cũng trở nên im lìm. Mẹ tôi nhìn mãi sâu vào những hạt mưa, bóng
lưng đổ xuống hiên gỗ. Một kí ức không có âm thanh, một kí ức tôi sẽ mãi
hồi tưởng qua tấm lọc đen trắng. Một kí ức tôi chưa thể hiểu vào thời
bấy giờ, nhưng rồi tôi sẽ hiểu, và tôi sẽ biết vào lúc trưởng thành tự
trải qua, rằng chỉ tương tư mới làm một người đàn bà đẹp đến mức ấy.
Mùa
cói vẫn dang dở cho đến cả khi mưa tan đi và cánh hoa phượng cuối cùng
mục nát trên sân trường, đám trẻ con thôi không đến nhà máy nữa mà trở
lại trường học.
Tôi không thích trường học. Tôi hay lơ đãng nằm
nghiêng trên mặt bàn gỗ lành lạnh chằng chịt vết thước kẻ và bút xóa,
nhìn ra đầm cói bên ngoài khung cửa sổ. Trước mùa cói ấy, tôi nghĩ đầm
cói là một thứ tuyệt vời, đẹp đẽ, xanh dập dìu, xanh nhức mắt. Tôi
thường trốn vào đó để tránh đám bạn học vào những giờ ra chơi. Trẻ con
có thể thật tàn nhẫn, vì trẻ con chính là phiên bản sơ khai, thành thật,
không che giấu của con người. Chúng có thể trở nên giống như một thứ
ung nhọt mọc trên sự khuyết thiếu của cuộc đời người khác, mà ở trường
hợp của tôi, sự khuyết thiếu ấy chính là không có bố.
Bố tôi mất khi
tôi mới năm tuổi, chưa đủ lớn để hiểu về cái chết, để biến cái chết
thành một nỗi đau. Kí ức của tôi về ngày hôm ấy vẫn còn, tôi đứng bên
cạnh bà ngoại, nhìn người ta hạ chiếc quan tài xuống cái huyệt rất sâu.
Khi
người ta bắt đầu lấp huyệt, bà đưa cho tôi một nắm đất, bảo tôi ném
xuống. Tôi làm theo, trong lòng không buồn đau hay vui sướng. Và rồi tôi
sẽ quên dần mình từng có một người bố. Hai mẹ con cứ thế sống cùng
nhau, thiếu vắng dáng hình người đàn ông trong những năm sau đó ở căn
nhà gỗ trên đỉnh đồi. Riết thành quen. Nhưng rồi những đứa trẻ học cùng
tôi sẽ hỏi:
“Bố mày đâu?”.
“Mày không có bố à?”.
Tôi đem câu
hỏi này hỏi mẹ, mẹ tôi không đáp mà ngồi bưng mặt khóc. Vì vậy về sau
tôi không hỏi những việc như vậy nữa. Mỗi lần bị trêu chọc tôi lại chạy
thật nhanh, sâu vào những cánh đồng cói. Một mê cung xanh bát ngát nhưng
đủ thân thuộc để không bao giờ bị lạc. Đó dường như là một thế giới
khác, tất cả những muộn phiền đều bị tiếng cói xào xạc làm tan đi, an
toàn vô cùng, riêng tư vô cùng. Thứ duy nhất còn lại ngoài màu xanh lá
cây là bầu trời cao trống trải. Tôi lót áo nằm lên nền cỏ ẩm, ngủ quên
lúc nào không hay. Trong cơn mơ tôi vẫn nhớ mẹ tôi là một người đàn bà
đẹp. Đẹp thì cũng chẳng phải tội, nhưng góa chồng mà lại đẹp, càng ngày
càng đằm thắm bất chấp cuộc sống vất vả, giật về biết bao nhiêu cái nhìn
thì đích thực là tội lớn. Một vẻ đẹp hớ hênh không thuộc về ai, cám dỗ
cứ như viên mật đường đặt trước tổ kiến, hút đến tất cả những ham muốn,
khát khao trong lòng đàn ông và đố kị, dè chừng trong lòng đàn bà. Điều
ấy tôi nhận ra từ những ngày quá bé. Họ vẫn trêu ghẹo mẹ mỗi khi có dịp,
mỗi khi bắt gặp mẹ ở một nơi vắng vẻ. Họ túm lấy cánh tay mẹ tôi, hỏi:
“Em làm gì mà sao da dẻ mịn màng được vậy?”. Mẹ tôi sống lưng thẳng tắp,
dứt khoát giật ra đáp: “Anh đừng làm vậy, chị nhà mà thấy lại nghĩ ngợi
lung tung!”. Họ tới gọi cửa nhà tôi vào mỗi tối, sỗ sàng nhét ít tiền
vào ngực áo mẹ tôi cùng câu: “Anh cho con em tiền mua bộ quần áo mới!”.
Mẹ tôi sợ hãi đẩy ra: “Anh làm cái gì thế? Tôi la lên bây giờ, ai cần
tiền của anh bao giờ!”. Người ta cười giả lả: “Em cứ cầm đi, anh có đòi
của em cái gì đâu, anh thấy hai mẹ con thiếu thốn nên muốn giúp đỡ
thôi”.
Những việc như vậy, lâu dần mẹ tôi không còn khóc, rất hiếm
chuyện có thể làm mẹ khóc nữa, tới mức tôi tưởng như dưới một thân hình
đàn bà căng tràn sức sống như vậy, là một tâm hồn chai lì chết lặng. Tôi
từng nghĩ, như thế cũng tốt. Ngõ nhà cô phụ vốn lắm điều tiếng thị phi,
mặc kệ những gì người ta đồn thổi, chúng tôi chỉ cần nhau là đủ.
Mùa
cói năm ấy khắc nghiệt lạ thường, nắng thì vỡ đầu mà mưa thì vỡ đập.
Thủy điện chẳng rõ làm sao trục trặc, suốt hai tuần liền tối nào cũng
cắt điện. Đến tuần thứ ba thì có một đoàn kĩ sư từ dưới xuôi tới thị
trấn, nghe nói để vá chỗ đập bị hỏng. Những người lạ luôn thu hút sự chú
ý của người dân ở một thị trấn nhỏ. Qua những câu chuyện bập bõm tôi
nghe lỏm người lớn kể và thi thoảng thấy đoàn kĩ sư đi ngang đâu đó. Tôi
hình dung thế này, họ là những người thành thị mặc áo sơ mi, quần âu,
lịch lãm, khác hẳn những người dân lao động thô kệch chỗ tôi. Họ đến từ
một thế giới khác, nhìn thấy được mà không thể chạm vào, giống hệt như
những quả cầu thủy tinh đẹp đẽ đặt trong tủ kính cửa hàng lưu niệm.
Buổi
chiều cuối tuần nọ, tôi đứng ở góc đồi nhà mình tưới dàn mướp đắng thì
thấy hai người trong đoàn kĩ sư đang men theo con đường đất nhỏ mà đi
lên, gió mang tiếng trò chuyện vang rất xa, tôi nghe bập bõm, định chạy
vào gọi thì đã thấy mẹ đứng lặng yên trước hiên nhà nhìn hai bóng người
nhỏ dần dần biến thành to, xuất hiện ngay ở trước cổng.
Đàn ông nhìn chằm chằm vào mẹ thì tôi gặp nhiều rồi, nhưng chẳng mấy khi mẹ nhìn lại người ta.
Chuyện
cũng chẳng có gì, chỉ là nhà tôi ở vị trí thuận lợi để đặt một loại máy
đo cảm biến nào đó, nên họ tới thuê đất. Tôi không rõ chuyện gì đã xảy
ra, nhưng buổi sáng hôm ấy, rồi sáng hôm sau nữa, khi thứ máy móc kia
được lắp đặt xong, trước khi rời đi, một trong hai người kĩ sư nói gì
với mẹ, tôi thấy mẹ lặng im không đáp, nhưng lúc quay đầu bước vào nhà,
chẳng biết là do nắng hay gió, hai gò má ửng hồng. Khóe môi rất lâu rồi
chưa từng vì một người đàn ông mà cười mỉm lúc ấy thoáng run run.
Tối
ấy tôi thắp nến ngồi học bài, thi thoảng ngước mắt lên thấy mẹ vẫn đang
bận rộn đan rổ cói, ánh lửa bị gió hiu hiu thổi bập bùng hắt lên gương
mặt nghiêng của mẹ lúc sáng lúc tối. Mẹ giục tôi đi ngủ trước. Tôi nằm
yên lặng trong màn rất lâu, nhìn dáng hình mảnh mai của mẹ bên ánh đèn
cầy. Một lọn tóc tuột ra, mẹ dùng tay cài nó vào sau mang tai, rồi như
nhớ đến điều gì, ánh mắt mẹ chợt thẫn thờ. Mẹ nén một tiếng thở dài,
ngẩng đầu lên như tìm kiếm điều gì trong không khí, hai bờ môi khẽ tách
ra, bàn tay chầm chậm buông lá cói đang đan dở, tự chạm vào hai bầu ngực
căng tức như muốn bục ra khỏi hàng cúc sau lớp áo vải. Thiêu thân bị
ánh nến trong đêm thu hút, bay lòng vòng xung quanh.
Giờ nhớ lại, có
những chuyện, xảy ra từ khi tôi còn rất nhỏ, quá nhỏ để hiểu, để biết,
để thấy những cảm xúc sau này sẽ vì thế mà xoay vần, khiến loài cây đáng
nhẽ là thân thương mà cuối cùng lại thành một sự ám ảnh. Rất lâu về
sau, khi đủ sức lực và quyết tâm để chạy đến một khung trời khác, tôi
miết những ngón tay mình trên cửa kính hoen gỉ của chiếc xe khách, nhìn
ra bên ngoài cánh đồng cói đã bị che khuất bởi núi đồi. Kể từ mùa cói
đó, tôi đã luôn khát vọng rời đi, thế mà lúc thực sự bỏ sau lưng tất
thảy, tôi lại thấy thân thể mình biến thành đất, thành nước, thành cái
đầm đã nuôi dưỡng hàng trăm vạn cây cói qua hết năm này đến năm khác, và
đau đớn như thể người ta đang nỡ lòng nhổ giật đi từng bụi rễ cắm sâu
trong lòng.
Tôi từng nghĩ có một mùa cói, chỉ một mà thôi, đã trở
thành bao lơn đời mình, nơi bao lơn xẻ cuộc đời tôi thành hai nửa, ép
tôi giã từ những ngây ngô trẻ thơ để mang tâm tính muộn sầu của một
người con gái. Nhưng giờ tôi hiểu rằng đó không chỉ là một mùa cói duy
nhất, nó là những mùa cói trải suốt bao nhiêu năm tháng xếp chồng lên
nhau, cùng tôi lớn lên, tuy có rất nhiều kí ức đã rụng rơi, nhưng những
gì còn lại cũng đủ xếp thành một bức tranh hoàn chỉnh.
Có lẽ tôi đã
sớm nhận ra những dấu hiệu của chuyện ấy, bắt đầu từ đôi mắt một người
đàn bà cô quạnh bỗng một ngày chợt sáng lên bất thường, rồi đến những
đêm mẹ tôi châm đèn, bôi son dặm phấn ra ngoài thật muộn. Khi trăng đã
lên cao và sương đêm mịt mờ, tôi ngó tà áo gấm lụa lất phất rời đi, mờ
lẫn vào mùi hoa quỳnh rồi đứng một mình ngoài sân ngửa cổ đoán tìm vị
trí của các chòm sao, rốt cuộc, chòm sao thì không thấy, chỉ thấy ánh
trăng muộn thật lạnh…
Ở thị trấn của tôi có một người đàn bà điên. Về
sau tôi mới biết thì ra thị trấn nào cũng có một người điên như vậy. Bà
ta là nỗi khiếp sợ của tất cả trẻ con trong xóm với đôi mắt trắng dã,
hàm răng vàng như ngô và mái đầu bù xù. Mụ điên sống dựa vào lòng tốt
rơi rớt của mọi người hay việc nhặt rác quanh thị trấn, và sau hàng rào
táo gai ngôi nhà tăm tối của bà, đám trẻ chúng tôi tự dọa mình bằng việc
truyền tai nhau những câu chuyện hãi hùng, mụ điên ăn thịt trẻ con. Rồi
tôi đủ lớn để biết rằng đó không phải sự thật, tôi đủ lớn để nghe thấp
thoáng người ta kể rằng người đàn bà điên cũng từng là một thiếu nữ.
Thiếu nữ bị người tình bỏ rơi ngay trước ngày cưới, thiếu nữ vì thế mà
thành ra ế chồng, sống cô quạnh một mình để rồi bị cuộc đời hãm hiếp đến
mức sinh ra một đứa trẻ chết non. Hồi ấy mẹ tôi thường lên ngôi chùa
trên núi đỡ việc làm cỗ chay mỗi dịp tuần rằm, tôi vắt vẻo đi theo, và
chứng kiến một lần sư thầy mang cơm cho bà điên.
Tôi ngây thơ hỏi sư thầy: “Thầy ơi, vì sao người ta lại bị điên hả thầy?”.
Sư
thầy đáp: “Có những người mà trần gian đối với họ giống như địa ngục,
vì vậy nên họ tự giải thoát mình đến một thế giới khác. Những gì còn lại
chỉ là xác thịt trần tục mà thôi”.
Minh họa: LÊ ANH
Tôi nghĩ ngợi hồi lâu: “Như vậy thật đáng thương”.
Sư thầy cười bảo: “Có gì là đáng thương? Trần gian là nơi tràn ngập đau khổ, người tỉnh mới đáng thương”.
Tôi
sẽ tin những lời đó cho đến một buổi chiều mưa phùn rả rích giăng trắng
khung cảnh làm đầm cói càng thêm mênh mông hoang hoải, mùi cỏ và đất
nồng hơn bao giờ hết, trên đường đi học về, ngay chỗ ngã tư dưới chân
đồi, người ta xúm đông xúm đỏ xem điều gì đó. Tôi đã không kìm được lòng
tò mò, xen vào giữa đám đông để nhìn thứ gì gây chú ý đến vậy. Rồi tôi
nghe thấy những tiếng gào hét, gầm rú không giống như là của một con
người. Ở giữa lòng đường, không một mảnh vải che thân, người đàn bà điên
đang lên cơn động kinh, hai tay tự đập mạnh vào đầu như thể muốn bể nát
hộp sọ ra, dãi nhểu xuống tận cằm và cơ thể chằng chịt những vết xước
do cọ xát với lòng đường đầy sỏi đá. Tôi nhớ mình đã rất muốn cất lời,
nói gì cũng được, cầu xin ai đó hãy làm điều gì để xoa dịu sự khốn khổ
kia đi. Tôi nhìn quanh để tìm kiếm một gương mặt biểu hiện sự đồng cảm
nhưng những bóng người cao lớn xung quanh thật lạnh lùng. Họ bàn tán chỉ
trỏ mọi việc với một thái độ thật dửng dưng nếu không nói là thích thú,
giống như xem chương trình khỉ đi xe đạp mà lâu lâu đoàn xiếc rong vẫn
biểu diễn mỗi khi ghé qua thị trấn.
Tôi lách ra khỏi đám đông và chạy
trốn vào đầm cói mênh mông. Tôi lang thang trên những con đường đất nhỏ
xíu cắt ngang cánh đồng. Mưa lâm thâm làm bầu trời lạnh trắng xóa không
một gợn mây, kéo không gian thành thật dài và rộng. Đầm cói đã ấp tôi
vào lòng, vỗ về che chở khi tôi cần một mình nhất. Đầm cói hứa sẽ luôn
cho tôi một chỗ trú an toàn.
Nhưng rồi mùa cói ấy, cánh đồng đã phản bội tôi.
Giữa
mê cung màu xanh đẹp đẽ của mình, tôi vô tình bắt gặp một cặp tình nhân
đang thả lên trời những hơi thở gấp gáp, gió lay ngọn cói xào xạc cỡ
nào cũng không át được âm khúc hoan lạc.
Thấp thoáng qua đọt cói non
đang mọc dở, hai bóng người cuốn lấy nhau, làn da họ trắng sáng giữa
chiều lất phất, lấp lánh chẳng biết mồ hôi hay hạt mưa, nổi bật lên
trong sắc xanh bạt ngàn. Người phụ nữ trì níu bàn tay người đàn ông trên
bầu ngực mình, gấp gáp đòi hỏi, một nhu cầu khẩn thiết đến mức có cái
gì vỡ toạc ra không khí, tràn về dữ dội như đập thủy điện mùa bão tháo
nước…
Những mùa cói cứ đến rồi lại đi, năm mười bảy tuổi, vừa tốt
nghiệp cấp ba, tôi cho vài ba bộ quần áo cùng tiền đủ cho học kì đầu vào
một chiếc túi vải. Mẹ tôi luôn không đồng ý với quyết định ấy. “Sao con
không học ở Thái Nguyên cho gần, đi lại tiện. Hà Nội đắt đỏ, lấy đâu
tiền mà sống?”.
Lúc ấy tôi chẳng nghĩ ngợi nhiều chỉ muốn đi thật xa
khỏi thị trấn, chỉ muốn đến một nơi không quen biết ai, để sự tồn tại
của mình giống như khói bếp chiều, cứ bay lên cao rồi tan hẳn, không để
lại một dáng hình, một mùi hương.
Mẹ không vui vì tôi kiên quyết ra
đi cho đến tận ngày cuối cùng. Tiết trời hôm ấy vừa lạnh vừa ẩm, mưa
phùn rả rích làm không gian trắng mờ, chúng tôi bước cạnh nhau trên con
đường đất khúc khuỷu dẫn xuống đồi, ven đường hoa xuyến chi trắng đến
nhức nhối trong mưa. Mẹ tôi cầm ô, tôi cầm túi xách, hai người im lặng
hồi lâu, mấy lần mẹ hít vào một hơi sâu, định nói gì rồi lại thôi, rốt
cuộc cũng cất lời: “Con giận mẹ à?”.
Tôi không hề chuẩn bị cho câu hỏi ấy, sững sờ quay sang.
“Có phải con giận mẹ không?”. Tôi chưa kịp đáp, mẹ tôi lại hỏi.
Tôi
như con rối gỗ đột nhiên bị người ta cắt mất dây điều khiển, không sao
cử động nổi. Tôi có giận không? Nếu có, vì sao? Tôi không biết câu trả
lời, tôi cắn môi nhìn ra cánh đồng cói không hề đổi khác sau ngần ấy
năm, cảm thấy trái tim băng lạnh.
Những năm đầu tiên ở thành phố tôi
ngu ngơ vụng dại biết bao điều. Tôi không hẳn là muốn, nhưng nghĩ nhiều
đến cái chết. Có những ngày liên tục tôi chỉ nằm một mình trong căn
phòng trọ xập xệ, nhìn ánh sáng qua cửa sổ để đoán ngày và đêm. Lại có
những ngày tôi làm đến kiệt sức, đi gia sư, đi bưng bê cho quán phở đêm,
lên trường ngồi ngật ngưỡng trong lớp học… Tôi bán mình với một cái giá
rẻ mạt cho qua loa quãng đời sinh viên rẻ rúng. Tôi chỉ không muốn phải
trở về, tôi cũng không hiểu sao lại như vậy, nhưng tôi vẫn mơ mình lạc
trong một đầm cói, sình dính ngập đến đầu gối, vùng vẫy thế nào cũng
không thoát ra được. Đầm cói ép chặt, đè nén khiến tôi không thở nổi,
đầm cói giễu nhại, cào cấu vào những ê hề trong lòng.
Mẹ tôi hỏi, con có giận mẹ không?
Câu
hỏi này, cho đến tận bây giờ tôi vẫn không sao trả lời được. Tôi cứ mãi
quay về một mùa cói như xem lại một bức tranh cũ. Bức tranh mà càng để
lâu, theo thời gian lại càng mờ nhạt, mông lung. Đã có thời, chỉ cần
nhắm mắt lại là mọi âm thanh, màu sắc sẽ ùa về rõ nét đến mức dường như
đưa tay ra có thể chạm tới. Từ thứ mùi hăng của cỏ, sắc trắng xanh của
bầu trời và âm thanh cói xào xạc ấp vào nhau. Nhưng càng ngày, tôi càng
mất thời giờ để hồi tưởng về những gì đã xảy ra. Và không phải lúc nào
sự hồi tưởng ấy cũng thành công, đôi khi cái chậu tưởng kí của tôi bị
nhiễu loạn bởi một điều gì đó từ bên ngoài, đôi khi lại là do chính tôi
không thể nhớ lại, ngắt quãng như chuỗi domino mất đi một tấm thẻ.
Có lẽ tôi sẽ lại bắt đầu từ một buổi chiều mùa ấy trên đường về nhà, có người ghẹo mẹ tôi.
“Hai mẹ con có cần tôi trở về không?”.
Mẹ
vẫn dắt tay tôi, mắt nhìn thẳng, chân bước nhanh, còn tôi thì tò mò
ngoảnh đầu lại nhìn, chợt sững sờ. Đó là người kĩ sư thủy điện mới trở
lại thị trấn. Người ấy đã đến vào những mùa cói hồi lâu về trước…
Khi
mà bố tôi mất tôi mới năm tuổi. Năm tuổi thì đủ để biết những gì và nhớ
những gì? Tôi cũng không rõ nữa. Nhưng một trong những kí ức sớm nhất
mà tôi có, chính là ngồi trên cano bố chở tôi đi vào lòng hồ. Hồ mênh
mông, trập trùng những ngọn đồi ngập dở dang, xanh đến nhức mắt, xanh
đến tan nát cõi lòng. Nếu không nhờ bức ảnh đen trắng ngày ngày nở cùng
một nụ cười nhìn cuộc sống hai mẹ con qua lư hương nghi ngút trên bàn
thờ, thì có lẽ tôi đã quên mất gương mặt ông. Trong kí ức của tôi chỉ
còn lại một bóng lưng đang lái cano nhàn nhạt. Bố tôi vì chuyện gì đó mà
cười rất to, tiếng cười suýt nữa bị tiếng động cơ vỗ nước ì oạp át đi.
Bố
tôi từng là công nhân trong nhà máy thủy điện. Mỗi lần có đoàn kiểm tra
từ thành phố tới, bố lại dong thuyền chở họ thăm thú khắp nơi. Những
người đàn ông trầm trồ thán phục trước vẻ đẹp của công trình, và nhà máy
thủy điện thì nằm sừng sững như một con quái vật xám xịt giữa màu xanh
của nước non núi đồi. Dong thuyền từ sáng đến ráng chiều, bố sẽ mời mọi
người đến nhà ăn cơm. Chúng tôi trở lại bến nơi có gốc cây gạo già, hoa
nở đỏ mặt hồ. Mẹ tôi đứng đợi ở bờ, tà áo phấp phới bay, mái tóc dài như
suối, gương mặt bị ánh hoàng hôn nhuộm hồng.
Vẻ đẹp của mẹ không chỉ
làm bố con tôi ngẩn ngơ, mà còn làm ngẩn ngơ cả những người đàn ông
khác. Tôi sẽ nhớ mãi, khi vô tình quay đầu bắt gặp ánh mắt người ta nhìn
vào dáng hình mẹ, sự khát khao như là cơn sóng mãi quẩn quanh trên mặt
hồ.
Vào mùa cói người kĩ sư ấy trở lại thị trấn và gặp mẹ tôi, hỏi: “Em không nhớ tôi à?”.
Mẹ tôi im lặng rất lâu, rồi đáp: “Em nhớ”.
Hóa
ra, người đàn bà chỉ thực sự đẹp khi được yêu. Ánh mắt sáng, môi hàm
tiếu, hai gò má không cần ráng chiều cũng đỏ. Để rồi trên cánh đồng cói
thủa ngây dại của mình, tôi bắt gặp mẹ và người bạn cũ của bố cuộn vào
nhau giữa chiều thu mưa lất phất. Tôi lùi từng bước thật khẽ, quay lại
con đường đất dẫn ra phía bên kia cánh đồng. Mùa ấy hoa cúc dại nở vàng
một góc trời, tôi cứ mải miết, mải miết chạy đến khi thân thể rã rời, mồ
hôi thấm ướt lưng áo, hai chiếc giày nhuộm nâu màu bùn. Tôi lang thang
đến tận chân núi nơi có những thửa ruộng bậc thang. Lúa sắp chín thơm
ngào ngạt, tôi nhắm mắt lại, nằm vật ra bãi cỏ ướt đọng đầy mưa, nghe
tiếng côn trùng bắt đầu rì rào. Chẳng biết thái dương tắt từ lúc nào,
chỉ thấy trời ngả dần sang sắc tím. Phía tây chân trời không bị núi bao
phủ, những dải mây màu hồng sáng lên rực rỡ, tôi đưa tay với lấy, càng
cố với càng không sao nắm bắt nổi. Mắt tôi xông đầy hơi nước làm cảnh
vật bị mờ đi trong phổ sáng chạng vạng, một thứ sắc màu nhòe nhoẹt ám
ảnh mà nhiều năm rồi tôi không sao quên nổi.
Khi ấy tôi còn quá nhỏ
để gọi tên được những rối bời trong lòng. Tôi chỉ muốn hét thật to, muốn
xóa tan những cảm xúc lạ lẫm mà cay đắng lần đầu trong đời phải nếm
trải, những ngây ngô, ích kỉ tuổi thơ chợt thành câm lặng. Lần đầu tiên,
tôi nghĩ rằng tôi nhớ bố vô cùng.
Rất lâu về sau, tôi vẫn sẽ tìm
kiếm một thứ để đổ lỗi cho những hối tiếc của tôi và mẹ. Tôi thường bắt
đầu từ mùa cói ấy… Nếu không có mùa cói ấy… Nhưng rồi tôi sẽ đổ lỗi cho
mùa cói năm năm trước đó, mùa cói đã mang bố tôi đi. Cơn lũ kinh hoàng
khi thủy điện mở cửa xả nước, bố tôi chết trương trong lòng hồ ba ngày
sau mới thấy xác. Và tôi sẽ đổ lỗi cho hồ, giá đừng có hồ, giá đừng có
cây cói. Hồ nhân tạo là vết thương hở trong lòng rừng nhiệt đới, và cũng
là vết thương hở trong lòng tôi. Giá mà người ta không xây thủy điện ở
nơi này, để mặc thị trấn nấp mình trong những cánh rừng nguyên sinh bạt
ngàn.
*
* *
Có
một đầm cói người ta không bao giờ gặt. Những cây cói ấy gốc đỏ lạ
thường, lớn nhanh như thổi, sống lâu năm thân chuyển sang màu xanh nâu,
ống thành thân gỗ. Xác bố tôi được chôn ở đó. Lễ hạ huyệt diễn ra trong
tiết trời hệt như hôm nay, chiều thu, mưa phùn.
Và có lẽ những hờn
ghen ngây ngô của tôi đã không bị xẻ nửa nếu tôi không biết rằng, lâu
rồi mẹ tôi mới được sống như một người đàn bà, được ngã vào tay một
người đàn ông và yêu say đắm. Lâu rồi mẹ mới cười vui, mong đợi, hạnh
phúc. Mẹ sẽ yêu vụng dại và ngây ngất… Mẹ sẽ chờ người tình mỗi đêm thao
thức, một tiếng gõ cửa thành niềm vui, một lá thư tay cũng đủ để sung
sướng cả ngày.
Mẹ tôi như không biết đến gì ngoài sự mù quáng của mình, bất chấp một người bạn già của gia đình lo lắng.
Bác Hoan thảng thốt: “Mày cặp với nó, thế nó có cho mày cái gì không?”.
“Em đâu có cần cái gì!”.
“Giời
ơi, sao mày dại thế, xin được cái gì thì phải xin đi chứ. Còn nếu nó
không cho thì phải dừng lại ngay, cuộc sống mày ở đây, con mày lớn lên ở
đây, nhỡ có điều tiếng gì nó chỉ phủi đít đi là xong, còn mày thì sống
làm sao được ở cái chốn này nữa!”.
Mẹ tôi như đứa con gái ngày đầu
biết yêu bướng bỉnh không nghe lời cha mẹ. Và rồi cuối cùng cũng chuốc
phải đắng cay. Khi hoa sữa tàn, mùa cói cũng hết. Trời khô và hồ lại cạn
nước… Người kĩ sư bỏ mẹ tôi để về với gia đình dưới xuôi không chút lưu
luyến. Mẹ tôi ngồi chết lặng ngoài hiên dưới cơn mưa cuối mùa, nhìn
những hạt nước vô tình rơi xuống mặt đất. Người ta sẽ rời đi, áo sơ mi
vẫn trắng và mái đầu chải chuốt, để lại chúng tôi ê chề trong những lời
đồn thổi về một người đàn bà góa lăng loàn và một đứa con gái không phải
máu mủ của người chồng đã chết. Kể từ mùa cói ấy, những lời nói đó sẽ
đeo đuổi cuộc đời chúng tôi, hằn vào tôi những vết gạch sâu hoắm quãng
thiếu thời. Trong một thị trấn nhỏ, người ta không quên điều gì, và cũng
không tha thứ cho điều gì cả.
Nhan sắc của người đàn bà từng đẹp như giễu cợt, như trêu ngươi rồi cũng sẽ tàn phai.
Chỉ có những nỗi đau là mắc lại trong lòng…
Nhiều
năm rồi, giờ tôi lặng im nhìn những kí ức đang tan dần vào quên lãng.
Được mất, buồn vui, rồi cũng sẽ như đồng cói xanh ngút ngàn kia, ngày
ngày, vươn mình lên với trời
Nguồn:http://vannghequandoi.vn/van-xuoi/mua-coi_8996.html