Các thế lực 
thù địch âm mưu tấn công thẳng vào nền tảng lý luận nhằm hạ thấp uy tín,
 kể cả bôi nhọ cuộc đời riêng tư và sự nghiệp cách mạng của C. Mác, Ph. 
Ăngghen và V.I. Lênin, thực hiện dã tâm phủ nhận, xóa bỏ toàn bộ chủ 
nghĩa Mác - Lênin trên toàn thế giới, mưu toan phá vỡ và lật đổ nền tảng
 tư tưởng của Đảng ta. Có thể dễ dàng thấy người ta đang điên cuồng bài 
bác, trương lên và tung hê cái gọi là các luận đề: "Học thuyết Mác là 
sản phẩm của giữa thế kỷ XIX, do vậy đem đặt nó trong bối cảnh thế kỷ 
XXI nếu không lạc hậu, thì cũng chẳng thể là khoa học"; “Chủ nghĩa Mác -
 Lênin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây nên không còn phù hợp với 
Việt Nam”, v.v...
Nhưng, sự thật có phải như những thế lực thù địch tuyên truyền một cách ảo tưởng, suy diễn như vậy không?
C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin không 
phải là những ông “thầy bói của lịch sử”, như một số người bôi nhọ hay 
huyễn hoặc, dù vô tình hay cố ý. Các ông là những nhà khoa học, những 
nhà cách mạng. Lý tưởng mà các ông theo đuổi là khát vọng của nhân loại 
tiến bộ - lý tưởng giải phóng hoàn toàn con người khỏi mọi ách áp bức 
bóc lột, vươn tới ấm no, tự do, hạnh phúc. Phải chăng điều thiêng liêng 
như vậy chỉ có phương Tây cần và phù hợp với phương Tây - nơi mà chủ 
nghĩa tư bản đang bóc lột những người lao động một cách tinh vi, thâm 
độc. Chủ nghĩa do các ông sáng lập và đấu tranh bảo vệ không mệt mỏi, là
 nhằm hiện thực hóa lý tưởng đó, trên cơ sở lịch sử - cụ thể, một cách 
khách quan theo cái lôgíc phát triển tất yếu của nhân loại, bằng cách 
giải phẫu và biến đổi cách mạng đối với các xã hội mà loài người đã và 
đang tồn tại. Nói cách khác, lý luận của các ông chỉ giúp loài người lựa
 chọn điều cần và phải đi con đường dẫn tới chân lý, với những lực lượng
 tiên quyết, những điều kiện có tính chất cần và đủ, khi đứng ở ngã ba 
lịch sử của sự lựa chọn và phải quyết định. Thử hỏi điều đó, phương 
Đông, nơi khi mà chủ nghĩa thực dân mới được che đậy dưới mọi hình thức 
có cần không? hay chỉ phương Tây, nơi chính nhân dân lao động các nước 
tư bản chủ nghĩa đang bị giai cấp tư sản cầm tù, mới cần đến? Lịch sử 
nhân loại toàn thế giới đã và đang chứng minh: học thuyết của các ông là
 học thuyết khoa học và cách mạng đã, đang, sẽ là ngọn đuốc soi đường 
cho nhân dân lao động toàn thế giới đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng 
loài người khỏi mọi áp bức bất công...
Sự cần thiết, sự phù hợp, vai trò cơ
 sở, nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của 
chủ nghĩa Mác - Lênin đối với lịch sử phát triển của cách mạng thế giới 
và Việt Nam, có thể khái quát ở những điểm chủ yếu dưới đây:
1. Sự vận động, phát triển từ thời cổ 
đại đến nay của nhân loại và của lịch sử dân tộc Việt Nam là bằng chứng 
rõ ràng chứng tỏ rằng, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ 
nghĩa Mác - Lênin là khoa học, đúng đắn và phản ánh chính xác, khách 
quan lịch sử vận động, phát triển tiến bộ của toàn thể nhân loại, trong 
đó có dân tộc Việt Nam. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở 
lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để tiếp cận nghiên
 cứu, giải thích, dự báo sự phát triển mang tính lịch sử - tự nhiên của 
xã hội loài người nói chung, mỗi dân tộc nói riêng, trong đó có sự phát 
triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Học thuyết đó đã chỉ rõ: 
- Lịch sử phát triển của loài người là 
lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, 
trong đó sự phát triển của quan hệ sản xuất theo hướng tiến bộ, phù hợp 
với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất là cơ sở, trên 
đó xây dựng nên kiến trúc thượng tầng thích hợp. 
- Lịch sử loài người đã và đang trải qua
 5 hình thái kinh tế - xã hội, là quy luật chung của sự phát triển của 
xã hội loài người; còn mỗi quốc gia dân tộc có thể bỏ qua một hay một 
vài hình thái nào đó trong điều kiện lịch sử - cụ thể của thời đại và 
dân tộc. Việt Nam bỏ qua sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội chiếm 
hữu nô lệ và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa là một tất yếu 
lịch sử khách quan không thể phủ nhận .
Như vậy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác -
 Lênin không chỉ đơn thuần giải phẫu các hình thái kinh tế - xã hội, mà 
còn phân tích làm nổi bật lên bản chất, quy luật vận động, những mâu 
thuẫn của chúng và dự báo sự sụp đổ tất yếu, sự thay thế giữa chúng với 
nhau hoặc tuần tự hoặc nhảy vọt một cách biện chứng, theo quy luật. Một 
cách lịch sử - tự nhiên, cũng như từ chế độ cộng sản nguyên thủy nhân 
loại bước lên chế độ chiếm hữu nô lệ rồi chế độ phong kiến tới chủ nghĩa
 tư bản, thì sau hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa ấy phải là 
một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ hơn, đó chính là cộng sản chủ
 nghĩa, mà giai đoạn đầu là xã hội chủ nghĩa. Đó là một tất yếu lịch sử,
 hợp quy luật khách quan mà khoa học mácxít đã chỉ ra. 
Chủ nghĩa Mác - Lênin vì là khoa học và 
cách mạng triệt để nên nó giải quyết tất cả những vấn đề đặt ra của lịch
 sử , những yêu cầu tiến bộ của nhân loại cần lao, dù ở phương Đông hay 
phương Tây, như chính giá trị đích thực của bản thân nó. Thực tế lịch sử
 cho thấy, từ khi hình thành, phát triển và được xác lập vào cuối thế kỷ
 XIX, hệ thống các tư tưởng, quan điểm và những nguyên lý, quy luật kinh
 tế - xã hội mà hệ thống khoa học đó phát hiện ngày càng được chứng minh
 bằng thực tiễn cuộc sống, được thừa nhận rộng rãi và trở thành nền tảng
 tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của giai cấp công nhân 
toàn thế giới, là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân 
dân lao động trên các châu lục và của các đảng tiên phong, chân chính 
của giai cấp đó, không kể ở Việt Nam hay bất cứ quốc gia, dân tộc nào 
hay ở châu lục nào.
Ngay từ khi mới chỉ là một "bóng ma" ở 
châu Âu chủ nghĩa cộng sản khoa học đã đuợc thực nghiệm bằng những cuộc 
cách mạng vô sản, nổ ra và thành công, chính quyền công - nông được xác 
lập trong thực tiễn, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tồn tại với tất cả 
tính ưu việt và sức sống mãnh liệt của nó trên thế giới. Nó là linh hồn 
của các phong trào tiến bộ, giúp các dân tộc đập tan chủ nghĩa phát xít,
 giải phóng khỏi chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giành độc lập dân tộc, 
dân quyền và tự do cho toàn thể nhân loại cần lao, chứ đâu của riêng 
phương đông hay phương tây. 
C. Mác là nhà khoa học thiên tài và cách
 mạng triệt để nhất đã vạch trần một cách chính xác bản chất bóc lột của
 chế độ tư bản là bóc lột giá trị thặng dư - thủ đoạn, hình thức bóc lột
 nhân dân lao động rất tinh vi dù ở chính quốc hay thuộc địa của giai 
cấp tư sản; nguồn gốc chà đạp lên độc lập tự do của các quốc gia, dân 
tộc từ Á tới Âu… Bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay 
đổi, bản chất phản động toàn diện của nền chính trị tư sản hiện đại vẫn 
tồn tại, bản chất mâu thuẫn, khủng hoảng và xu hướng diệt vong tất yếu 
của chủ nghĩa tư bản vẫn là vấn đề thời sự của không chỉ thời C. Mác 
sống và ngay cả tới tận ngày nay. V.I. Lênin chỉ rõ: “Học thuyết của Mác
 là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác”, “...nó kết 
hợp tính chất khoa học chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa 
học xã hội) với tinh thần cách mạng...” . Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: 
“Chủ nghĩa Lênin... là cái “cẩm nang” thần kỳ không những là cái kim chỉ
 nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi 
cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” . 
Nhưng, các quan điểm sai trái và phản 
động lại vin vào việc chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô 
sụp đổ và nhân sự thăng trầm của chủ nghĩa xã hội để hô hoán lên rằng, 
“chủ nghĩa Mác đã thất bại”. Những lý lẽ đó không thể đánh lừa được ai. 
Lương tri của nhân loại vẫn rất tỉnh táo và sáng suốt khi đánh giá rằng 
“chủ nghĩa Mác vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng của nó trong thế
 giới hiện đại...” , chủ nghĩa Mác –Lênin “vẫn luôn luôn là một căn cứ 
quyết định cho các tổ chức cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế, cho
 các đảng cộng sản chân chính đề ra đường lối chiến lược, sách lược cách
 mạng của mình” . Nó đánh dấu sự phát triển trí tuệ của nhân loại trong 
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi 
toàn thế giới. Hơn nữa, chính những người thóa mạ và bôi nhọ chủ nghĩa 
Mác – Lênin, cố tình không hiểu rằng, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
 Âu sụp đổ không phải vì tư tưởng khoa học của học thuyết Mác - Lênin 
không còn tính thời đại, đã lỗi thời, mà là sự phá sản của một chủ 
trương, đường lối sai lầm, chẳng những sa vào quan liêu hóa, giáo điều, 
chủ quan, duy ý chí bắt đầu từ sai lầm trong xây dựng đường lối lãnh đạo
 của Đảng cầm quyền ở đó, do đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác - Lênin chân 
chính, mà còn là sự xét lại và phản bội chủ nghĩa xã hội khoa học; đồng 
thời không thể không kể đến những âm mưu thâm độc trong chiến lược “diễn
 biến hòa bình” mà chính chủ nghĩa đế quốc quốc tế sử dụng. Kẻ thù của 
các đảng cộng sản đã lợi dụng triệt để những sai lầm trong đường lối, 
những khiếm khuyết không được khắc phục kịp thời trong lãnh đạo và điều 
hành đất nước của các đảng cầm quyền ở các nước đó... để mua chuộc, kích
 động và cổ vũ những phần tử cơ hội bên trong, khuyến khích những hành 
động phản cách mạng bên ngoài. Kẻ thù của Chủ nghĩa Mác – Lênin đổ tội 
tất cả điều đó cho C. Mác, cho chủ nghĩa Mác – Lênin, đó là một điều phi
 lý, phản khoa học. 
Năm 1999, Trường Đại học Cambrit (Anh) 
công bố bình chọn nhà tư tưởng số một thiên niên kỷ thứ hai, kết quả là 
C. Mác đứng đầu, A. Anhxtanh - nhà khoa học lớn, đứng thứ hai. Và gần 
đây, theo thăm dò của tờ Tạp chí Spiegel (Đức) cho thấy, C. Mác được ưa 
chuộng một cách ngạc nhiên - hơn 50% số người dân Tây Đức nói rằng, “sự 
phê phán của C. Mác đối với chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn giữ nguyên giá
 trị”, và thậm chí hơn 56% cho rằng, “chủ nghĩa xã hội là một tư tưởng 
hay nhưng thực hành tồi”; và C. Mác trong giới trẻ còn nhận được sự đồng
 tình cao hơn nữa. Nhà tỷ phú đầu cơ chứng khoán George Soros, viết: “C.
 Mác và Ph. Ăngghen đã cho một phân tích rất tốt về hệ thống tư bản từ 
cách đây hơn 200 năm”. Tờ The New Yorker (Mỹ) cũng cho rằng, các vấn đề 
mà các nhà kinh tế học hiện đại đang đối mặt và giải quyết, nhưng thực 
ra họ đang “bước theo dấu chân của C. Mác mà họ không biết”, bởi chung 
lại theo tờ Tạp chí Newsweek (Mỹ), C.Mác “đã mổ xẻ cái hệ thống trục lợi
 này tốt hơn ai hết… Như thể C. Mác đã đội mồ đứng dậy!”. Và thực tế 
chứng minh rằng, chính bản thân chủ nghĩa tư bản dù ở phương Đông hay 
phương Tây (từ Nhật Bản tới Tây Âu rồi Mỹ…) cũng đã và đang vận dụng chủ
 nghĩa Mác - Lênin nhằm điều chỉnh, thích nghi để tồn tại...
Vậy xin được hỏi những ai toan tính
 phản bác chủ nghĩa Mác – Lênin, những ai hồ nghi, tráo trở về cái gọi 
là sự “phù hợp” của chủ nghĩa Mác - Lênin với phương Đông hay phương Tây
 một cách máy móc, phiến diện, thì còn vấn đề nào muốn thảo luận tiếp 
nữa không? 
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã sống, đang sống
 và mãi mãi là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng
 Cộng sản Việt Nam dân tộc Việt Nam đang từng bước vững chắc đi lên chủ 
nghĩa xã hội và góp phần vào sự nghiệp giải phóng toàn thể nhân loại cần
 lao...
2. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra quy luật
 khách quan của quá trình ra đời, phát triển của chủ nghĩa xã hội, chủ 
nghĩa cộng sản; đồng thời cũng chỉ ra điều kiện chủ quan quyết định của 
quá trình đó là: lý luận tiên phong và Đảng tiên phong của giai cấp công
 nhân. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác - Ăngghen đã nêu rõ tư 
tưởng về điều kiện để giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động
 khỏi ách áp bức bóc lột là phải có “đội tiên phong với lý luận tiên 
phong và hành động tiên phong”. Mác - Ăngghen đã chỉ rõ: những người 
cộng sản tuyệt nhiên không có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể
 giai cấp vô sản. Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên
 quyết nhất…, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt 
lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là, họ hiểu rõ
 những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản. 
Trong tác phẩm Làm gì, Lênin đã khẳng 
định: “không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”
 ; “chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả 
năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiền phong” .
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 
1945 của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam 
do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, giáo dục, lấy chủ nghĩa Mác
 - Lênin làm nền tảng tư tưởng chính trị, kim chỉ nam cho hành động cách
 mạng, là minh chứng thuyết phục nhất chứng tỏ, học thuyết Mác - Lênin 
đã thực sự đóng vai trò lý luận dẫn đường cho thắng lợi của cách mạng 
Việt Nam.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt 
Nam. Với truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, nhiều nhà yêu nước đã 
phất cờ tập hợp các tầng lớp nhân dân Việt Nam đã đứng lên chống quân 
xâm lược hơn nửa thế kỷ với ý chí “khi nào người Tây nhổ hết cỏ nước Nam
 mới hết người Nam chống người Tây” nhưng đều đã không thành công. Đầu 
thế kỷ XX phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản cũng lần lượt 
thất bại. Đất nước như không có đường ra... 
Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất 
Thành, với tên anh Ba ra đi tìm đường cứu nước. Sau gần 10 năm bôn ba 
khắp các châu lục vừa lao động bảo đảm cho cuộc sống, vừa nghiên cứu lý 
luận, vừa nghiên cứu thực tiễn cách mạng trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc 
đã đi đến kết luận: chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có
 thể giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức. Tiếp đến Người phải qua 
10 năm chuẩn bị trên cả ba phương diện: tư tưởng lý luận, đường lối 
chính trị, tổ chức cán bộ để đưa tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt 
Nam (3-2-1930). Nói về vai trò của Đảng Cộng sản và lý luận, trang đầu 
cuốn Đường Cách mệnh xuất bản năm 1927, Nguyễn Ái Quốc trích câu nói nổi
 tiếng của Lênin trong tác phẩm Làm gì: 
- Cách mệnh, trước hết cần cái gì? 
Và Người trả lời rõ ràng: “Trước hết cần
 có Đảng cách mệnh… Đảng có vững thì cách mệnh mới thành công… Đảng muốn
 vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, 
ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như 
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. 
Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa 
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất 
là chủ nghĩa Lênin” . 
Trong bài nói chuyện với lớp huấn luyện 
Đảng viên mới do Thành ủy Hà Nội tổ chức năm 1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh 
tiếp tục khẳng định: “Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì 
không thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải
 chịu khó học tập lý luận Mác - Lênin, đường lối chính sách của Đảng; 
đồng thời phải học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ” .
Trong những năm cuối đời, khi viết Di 
chúc, Bác Hồ tiếp tục khẳng định rõ tư tưởng về vai trò của chủ nghĩa 
Mác - Lênin và của Đảng Cộng sản. 
3. V.I. Lênin kế thừa, vận dụng sáng tạo
 và phát triển học thuyết của C. Mác vào thực tiễn cách mạng ở Nga và 
thế giới, trên cơ sở đó đề ra học thuyết về cách mạng xã hội chủ nghĩa 
trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. 
Trên cơ sở những nghiên cứu, phân tích 
về chủ nghĩa đế quốc, Lênin phát hiện ra quy luật phát triển không đều 
về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ chủ nghĩa đế 
quốc và đi đến kết luận: cách mạng vô sản có thể thắng lợi ở một số nước
 hay thậm chí ở một nước riêng lẻ, nơi chủ nghĩa tư bản chưa phải là 
phát triển nhất, nhưng là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền tư bản chủ 
nghĩa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã chứng minh cho điều đó.
 Đồng thời, Lênin đã đưa ra luận thuyết khoa học và cách mạng về sự quá 
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ 
nhân dân, Việt Nam chuyển lên tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở 
miền Bắc và trên quy mô cả nước (từ năm 1975). Thắng lợi của nhân dân 
Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, 
thống nhất Tổ quốc, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
 nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là bằng chứng thực
 tế đầy thuyết phục chứng tỏ, học thuyết của V.I. Lênin về cách mạng xã 
hội chủ nghĩa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, có
 cơ sở lý luận khoa học, cơ sở thực tiễn, phản ánh chính xác những nét 
lớn, cơ bản của thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX và cả hiện 
nay...
4. Những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, 
mang tính bước ngoặt, đặc biệt là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa 
lịch sử của 35 năm đổi mới mà Việt Nam đạt được, một phần rất quan trọng
 là do Đảng, Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo, phát triển những tư 
tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có Chính sách kinh 
tế mới (NEP) của Lênin trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Với NEP, Lênin đã khẳng định rằng, đi 
lên chủ nghĩa xã hội không phải là xóa bỏ kinh tế hàng hóa, kinh tế thị 
trường, mà phải phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường; không 
phải là nền kinh tế của một thành phần kinh tế độc tôn, mà là nền kinh 
tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu, v.v..
Sự vận dụng sáng tạo, phát triển học 
thuyết Mác - Lênin, cụ thể là NEP của Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện cụ 
thể Việt Nam được thể hiện đặc biệt rõ nét trong quan điểm, chủ trương, 
đường lối của Đảng ta về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
 chủ nghĩa, về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần... trong thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
5. Những thành tựu Việt Nam đạt được 
trong lĩnh vực đối ngoại, một phần rất quan trọng là do chúng ta biết 
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nhất là trong thực hiện 
nhất quán và có hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, 
hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; 
Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách 
nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn 
diện, sâu rộng. Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc trên cơ 
sở tôn trọng luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi, chú trọng nâng 
cao hiệu quả hội nhập quốc tế. Xét về bản chất, đường lối đối ngoại rộng
 mở trên đây của Việt Nam chính là sự vận dụng sáng tạo của Đảng, Nhà 
nước ta lý luận của Lênin về “cùng tồn tại hòa bình” giữa hai hệ thống 
chính trị xã hội đối lập nhau trước đây (hệ thống tư bản chủ nghĩa và hệ
 thống xã hội chủ nghĩa) - vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, vào bối 
cảnh mới trong nước và quốc tế hiện nay. 
Như vậy, với những minh chứng trên đây 
làm sao có thể nói rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin là “lạc hậu”, là “không 
phù hợp” với Việt Nam được.
Từ những phân tích trên đây, có cơ sở để khẳng định:
Thứ nhất, học thuyết Mác - 
Lênin có sức sống mãnh liệt và có giá trị thời đại, bởi vì đây là học 
thuyết khoa học và cách mạng nhất cho đến ngày nay. Học thuyết Mác – 
Lênin là cơ sở thế giới quan, cơ sở phương pháp luận khoa học của nhân 
loại và gợi mở cho sự nghiên cứu tiếp tục trong tương lai của loài 
người. Học thuyết Mác - Lênin, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, thực sự 
trở thành nền tảng tư tưởng lý luận, kim chỉ nam cho hành động cách mạng
 của Đảng ta trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt 
Nam xã hội chủ nghĩa. 
Thứ hai, dù là học thuyết Mác -
 Lênin có khoa học và đúng đắn đến đâu đi nữa, thì cũng là sản phẩm của 
thời đại, của hoàn cảnh lịch sử nhất định, do vậy không thể giải đáp đầy
 đủ, chi tiết, cặn kẽ mọi vấn đề, ở mọi thời đại, của mọi quốc gia. Bởi 
vì, học thuyết Mác - Lênin là học thuyết mở, phải được bổ sung, phát 
triển không ngừng cùng với tiến trình phát triển tri thức, khoa học, 
thực tiễn của nhân loại. Khi vận dụng các nguyên lý cơ bản của học 
thuyết đó, nhất thiết phải dựa vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng 
nước trong từng thời kỳ cách mạng để vận dụng một cách sáng tạo và phát 
triển không ngừng. Những thắng lợi mang tính lịch sử của cách mạng Việt 
Nam từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo là minh chứng thuyết phục nhất về 
sự vận dụng sáng tạo và sự đóng góp cho phát triển học thuyết Mác - 
Lênin của Đảng ta, của nhân dân ta.
Thứ ba, vận dụng lý luận vào 
thực tiễn là con đường cam go, khúc khuỷu, phải có cơ chế thích hợp và 
đòi hỏi thái độ khách quan, khoa học, trung thực thì mới thành công.
Những kết luận rút ra trên đây cũng hoàn
 toàn đúng với việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ 
nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Ở Việt Nam, kể từ Đường cách mệnh do Chủ
 tịch Hồ Chí Minh khởi thảo và Luận cương chính trị do Hội nghị Trung 
ương tháng 10-1930 thông qua cho đến nay, Đảng ta đều khẳng định, chủ 
nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách
 mạng của Đảng. Từ Đại hội VII đến nay có sự bổ sung mới: “Đảng lấy chủ 
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của 
Đảng...”. Ngay từ năm 1991, Đại hội VII, Đảng ta đã khẳng định: “... tư 
tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - 
Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ 
Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả 
dân tộc; Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác
 - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân 
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp
 đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc 
và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội” . 
Bước vào thế kỷ XXI, với sự phát triển 
mãnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là cuộc cách mạng
 công nghiệp lần thứ tư với xung lực là kinh tế tri thức, kinh tế số 
đang tiến triển đột phá và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã 
và đang đặt ra trước toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta những trọng 
trách mới, ngày càng to lớn, phức tạp và khó khăn hơn. Nói cách khác, 
khi lịch sử thế giới bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ, hơn bao giờ 
hết, hàng loạt vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa cơ bản, vừa cấp 
bách đặt ra mệnh hệ tới tương lai của dân tộc đang đòi hỏi Đảng ta - 
Người mà dân tộc Việt Nam trao cho trọng trách đứng mũi chịu sào trước 
lịch sử dân tộc - phải tìm câu trả lời cấp bách, trong lúc những vấn đề 
mới mẻ và khó khăn ấy, mà sinh thời các nhà kinh điển không và không thể
 để lại một lời chỉ dẫn nào cụ thể cả. Công cuộc đổi mới toàn diện đất 
nước tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn phải tập trung
 giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn theo con 
đường xã hội chủ nghĩa, nhất là việc nhận thức, giải quyết đúng, hiệu 
quả các mối quan hệ lớn. 
Tất nhiên, chúng ta không thể phủ nhận 
một điều là, những thập niên 70, 80, nhất là đầu những năm 90 của thế kỷ
 XX, trong quá trình hiện thực hóa lý luận mác-xít, những người cộng sản
 gặp phải khó khăn to lớn, nhất là sau khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở 
Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Đặc biệt, khi lịch sử phát triển 
nhân loại ở vào tình thế có tính bước ngoặt, khi toàn cầu hóa trở thành 
phổ biến, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những xung lực phát 
triển mạnh mẽ, thì việc tìm lời giải cho việc bổ sung, phát triển sáng 
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin cho phù hợp với bối cảnh mới càng trở nên khó 
khăn gấp bội. Nhưng một điều chắc chắn rằng giai cấp công nhân mà đứng 
đầu là đảng cách mạng của nó đã, đang và tiếp tục đủ sức gánh vác trọng 
trách đó của lịch sử xã hội chủ nghĩa, khi biết cách vượt lên những 
thách thức của thời đại và điều cơ bản, có ý nghĩa quyết định nhất là 
phải biết trở về với chủ nghĩa Mác – Lênin, biết dựa vào sự chỉ dẫn về 
thế giới quan và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin một
 cách kiên định và sáng tạo. 
Do đó, trong công cuộc xây dựng chủ 
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta càng phải trở về với 
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách trung thành và vận 
dụng, phát triển sáng tạo. Nguyên tắc bất di bất dịch là, cần nghiên cứu
 và thấu triệt nó với tư cách không chỉ là nền tảng lý luận chính trị về
 phương diện chính trị - xã hội, một cương lĩnh chính trị - khoa học về
 mặt hành động cách mạng, một chỉnh thể toàn vẹn về mặt cấu trúc hệ 
thống, một thực thể vận động và thống nhất trên bình diện khoa học - 
thực tiễn, mà còn là một lý thuyết - thực tiễn mở về phương diện xã hội -
 lịch sử và là một tổng thể phương pháp luận khoa học và cách mạng, như 
chính bản thân học thuyết Mác - Lênin chứa đựng và thể hiện.
Qua thử thách và sự kiểm nghiệm của thực
 tiễn lịch sử, điều ngày càng sáng tỏ là, do sự kết tinh những tư cách 
và phẩm chất đó, chủ nghĩa Mác - Lênin, tự nó đã là một khoa học mang 
tính cách mạng sâu sắc. Bởi lẽ, chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết 
không chỉ nhằm giải thích thế giới mà quan trọng hơn là, nhằm cải tạo 
thế giới. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác - Lênin tuyệt đối không phải là 
thứ khoa học tự thân mà là khoa học về cách mạng, khoa học của thực tiễn
 và vì thực tiễn lịch sử cách mạng nhằm tới mục tiêu giải phóng con 
người khỏi sự chế ngự bởi “vương quốc tất yếu”, để bước tới “vương quốc 
tự do”. Vì thế, tự nó hàm chứa khả năng tự phát triển, tự sáng tạo không
 ngừng, thông qua cách mạng. Nói kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin 
cũng chính là phải không ngừng phát triển nó bằng thực tiễn cách mạng 
sáng tạo; đồng thời, tỉnh táo chống lại một cách kịp thời và hiệu quả 
mọi biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa xét
 lại làm vấy bẩn, méo mó và xuyên tạc nó. 
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu, phát 
triển di sản lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin thực chất là nghiên cứu, 
phát hiện và tổng kết những vấn đề mang tính quy luật, những quy luật 
của sự vận động tự nhiên, xã hội và tư duy một cách tổng quát, có tính 
chất chung nhất, mang tính tất yếu nhưng lại được hàm chứa và được thể 
hiện sinh động ở những thời kỳ lịch sử cụ thể, nhất định, xét trong toàn
 bộ tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của nhân loại, vì sự sống 
còn và phát triển của chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI. 
Theo đó, thực chất của toàn bộ việc 
nghiên cứu lý luận chính trị của chúng ta là nhằm mục tiêu góp phần xác 
lập một đường lối chính trị độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo dẫn 
dắt, chỉ đạo thắng lợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ 
quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ở nước ta hiện nay trên nền tảng chủ 
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng trên bình diện thực tiễn,
 không phải cứ nói tới định hướng xã hội chủ nghĩa trong công tác nghiên
 cứu lý luận chính trị là khắc có lý luận đúng đắn về sự nghiệp xây dựng
 chủ nghĩa xã hội, cụ thể hơn là đường lối chính trị xây dựng chủ nghĩa 
xã hội và bảo vệ Tổ quốc đúng đắn. Bởi lẽ, một mặt, về phương pháp luận,
 có định hướng tất có chệch hướng, xét cả trên bình diện vĩ mô lẫn vi 
mô, cả ở quy mô mang tính toàn cục lẫn bộ phận; mặt khác, về tổ chức 
thực tiễn, tự nó đã chứa đựng sự bất cập kép: hoạch định đường lối chính
 trị có thể sai quy luật và tổ chức thực thi đường lối chính trị có thể 
lệch lạc. Trong quá khứ, những sai lầm về thực tiễn đã chứng tỏ cả hai 
điều này. Bởi vậy, ngay tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII 
(tháng 1-1994), Đảng ta hết sức cảnh báo và đặc biệt lo lắng nguy cơ 
chệch hướng xã hội chủ nghĩa, coi đây là nguy cơ đứng hàng thứ nhất 
trong bốn nguy cơ, trên cả hai bình diện hoạch định đường lối và tổ chức
 thực tiễn đường lối chính trị của Đảng. 
Như vậy, phải ý thức sâu sắc rằng, vấn 
đề giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nghiên cứu lý luận chính 
trị trên nền tảng học thuyết Mác - Lênin có ý nghĩa đặc biệt quan 
trọng, quyết định sự thành bại của Đảng ta, của sự nghiệp xây dựng chủ 
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta hiện nay và của dân tộc, của
 đất nước trong tương lai. Đó là bài học thành hay bại của chúng ta 
trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mấy thập niên vừa qua; cũng là
 bài học thất bại của các đảng cộng sản cầm quyền tại các nước xã hội 
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu trong những thập niên cuối cùng của thế 
kỷ XX, khi chệch hướng hay lạc hướng về mặt kiến tạo đường lối chính 
trị, rộng hơn là lý luận chính trị. Chính từ sự phát triển phức tạp và 
khó khăn của thực tiễn cách mạng cho thấy, không gì có thể thực tiễn 
hơn, khi chúng ta có một lý luận khoa học và cách mạng dẫn đường. Ở đâu 
và ở lúc nào công tác lý luận không được coi trọng đúng mức thì ở đó và 
lúc đó xảy ra tình trạng khủng hoảng lý luận và lý luận tụt hậu; theo 
đó, công tác tổ chức thực tiễn sẽ hết sức chệch choạc, thậm chí gặp khó 
khăn và đổ vỡ. Thực tiễn xác nhận, chỉ có xuất phát từ chủ nghĩa Mác - 
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức tốt thực tiễn, kịp thời và thường 
xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng là con đường duy nhất 
đúng để phát triển và bảo vệ lý luận cách mạng mới tiếp tục đưa sự 
nghiệp cách mạng không ngừng tiến lên. 
Đó chính là mục đích, con đường, môi 
trường, là bước đi, thước đo hiệu quả, là thách thức, vận hội phát triển
 và là chân trời của sự sáng tạo của công tác lý luận hiện nay nhằm xây 
dựng và phát triển nền tảng tư tưởng chính trị dẫn dắt sự nghiệp đổi mới
 xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa 
đi tới thắng lợi; đồng thời, xác nhận thái độ, bản lĩnh, năng lực và đạo
 lý của chúng ta đối với học thuyết Mác – Lênin.
Bởi, xét cho cùng, toàn bộ công tác lý 
luận của chúng ta, về thực chất là nhằm tới mục đích xây dựng một đường 
lối chính trị độc lập, tự chủ và sáng tạo về lý luận của Đảng để chỉ đạo
 thắng lợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, theo 
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lịch sử Đảng ta 90 năm qua,
 xác nhận: do kiên định và vận dụng linh hoạt,phát triển sáng tạo chủ 
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó tìm đúng bản chất, quy 
luật vận động đặc thù của xã hội Việt Nam và xu thế vận động tất yếu của
 thời đại; đồng thời, đấu tranh một cách kiên quyết chống mọi biểu hiện 
của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cơ hội..., Đảng 
ta đã xây dựng thành công một đường lối cách mạng độc lập, tự chủ và 
sáng tạo của cách mạng nước ta. Ở tầm vĩ mô, công tác lý luận đã góp 
phần quan trọng trong việc kiến giải hàng loạt vấn đề khoa học - thực 
tiễn rất cơ bản và quan trọng, tiếp tục đưa đất nước vượt qua những khó 
khăn, thử thách tiếp tục phát triển trên con đường xã hội chủ nghĩa, 
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là 
những vấn đề về đặc điểm và nội dung của thời đại ngày nay; về mô hình 
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về sự nghiệp công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; về phát 
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về chủ động, tích 
cực hội nhập quốc tế; về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
 bản sắc dân tộc; về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn
 kết quốc tế; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
 về xây dựng Đảng cầm quyền ngang tầm sự nghiệp đổi mới đất nước, v.v.. 
Tất cả sự nỗ lực đó của công tác lý luận đã trực tiếp góp phần làm cho 
“con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ 
hơn”, đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm 
trọng kéo dài suốt hai thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, bước vào thời 
kỳ phát triển mới ở thế kỷ XXI với vị thế mới, thế và lực mới và một gia
 tốc mới, như bất cứ ai đều thấy. 
Đó chính là một trong những bài học lịch
 sử vô giá làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam, góp phần vào sự 
phát triển sáng tạo và bảo vệ thành công chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
 Hồ Chí Minh, trên cơ sở bảo đảm sự thống nhất giữa lý luận cách mạng và
 thực tiễn cách mạng nhằm vừa nâng cao trình độ lý luận vừa đẩy mạnh 
năng lực tổ chức thực tiễn cách mạng.