Một chiều cuối tháng 2 năm 1979, tiểu đoàn 4 chúng tôi có lệnh hành quân đánh giải vây cho tiểu đoàn 6 trong ga Rômia, Campuchia. Hải quân đón chúng tôi bằng đội tàu há mồm cùng mấy chiếc giang hạm hộ tống rồi hắt lên thị xã Kongpong Chnang.
Bến
đổ bộ đục ngầu do nước nông. Tụi tàu LCU gầm gừ trườn trên bùn thối, cố
dũi vào cái cầu tàu đóng cừ tràm chèn đất nện do công binh sư đoàn làm
tạm. Lâu lắm mới gặp lại vỉa hè hàng phố, có bóng rợp cổ thụ hàng cây
phượng tây. Phố bờ sông lạ hoang vu không một bóng người, khẳn mùi mắm
thối, mùi cá ươn lưu cữu. Nhưng phố vẫn là phố, đủ gọi tên thầm những
hàng phố thân yêu khác, dù xa lắc xa lơ trong lòng một thằng trai phố.
Ít ra đêm nay được ngủ ở đây, cũng còn hơn vạn lần quấn nilon ngủ vùi
trong ruộng nước.
Xe hậu cần trung đoàn tấp vào. Chúng tôi nhận bổ sung đạn dược, pin máy
và gạo, mỗi thằng được phát thêm hai hộp sữa. Trên một chiếc xe khác,
Hội “bọ” trợ lí quân lực tiểu đoàn, đeo túi mìn claymore căng phồng leo
lên thùng, hét tên từng thằng ra nhận thư. Tôi nhận được mười bốn lá thư
một lúc. Thư của mẹ, của em gái cùng các bạn học phổ thông. Đây là lần
đầu tiên những lá thư hậu phương tìm đến. Chúi vào một góc phố vắng xé
bì thư, đọc ngấu nghiến như ăn cướp, rồi lại giở ra đọc chậm từng lá.
Nét chữ tròn rõ ràng của mẹ. Mẹ mong con lúc nào cũng rắn rỏi vững vàng
như cây Tùng tên con mẹ đặt. Lén nhìn quanh, rồi cúi mặt xuống quệt
ngang tay áo. Áo lính mùa khô hút mau nước mắt và mồ hôi mặn. Có nỗi vui
mừng chen lẫn điều gì giống như sự tủi thân. Một thằng lính trận đen
đúa, từng dãi dầu nhiều trận ác liệt, nhiều đêm thức sâu trõm mắt, tập
tọng hút thuốc và chửi thề như vẹt đói, có ai ngờ chiều nay lén lau nước
mắt ở một góc phố rất xa.
Lá thư cuối của em, sau khi đọc hết những lá thư bè bạn vẫn còn kia chưa
dám mở. Lời yêu tôi đã ngỏ, như viên đạn đã thoát đầu nòng, mang theo
rất nhiều nhớ mong chờ đợi. Tưởng rằng đã quên hết đi theo những nẻo
đường hành quân lầm bụi, nay đã trở lại hồi âm, mỏng mảnh trên những
ngón tay run. Mẹ kiếp, trúng thì trúng, không trúng cũng đành ráng chịu
thôi. Tự động viên bằng một câu chửi thề, và hồi hộp như đêm nghe tiếng
đề pa cối địch. Trái đạn bắn đi, tựa viên xúc xắc số phận đã gieo đâu đó
trong không gian, nén lại cảm giác ngột ngạt chờ tiếng bạc chẵn lẻ cuộc
đời. Tôi bóc chậm lá thư đọc dòng đầu tiên.
Tùng xa nhớ...! Vỡ òa một hạnh phúc, một bình minh đang dựng chứ không
phải hoàng hôn đang trùm xuống bờ sông vắng. Đọc đi đọc lại đến thuộc
lòng. Đọc xong dường như lại quên ngay, muốn giở ra đọc lại đến trăm
ngàn lần nữa. Tôi đưa lá thư lên mũi hít. Mùi hồ dán, mùi giấy và tưởng
tượng ra ngón tay người đang nghiêng viết những dòng cuối cùng cho riêng
tôi: “Mưa rừng ơi mưa rừng. Hạt mưa nhớ ai mưa triền miên...”.
Hàng phố bâng khuâng
Hàng phố ở đây chỉ những thằng trai phố cũ, có tên bắt đầu bằng những
phố Hàng. Phố Hàng Lược, Hàng Khoai, Hàng Mã, chen quanh rộn ràng Đồng
Xuân…
Chúng tôi cùng phường cùng phố, học cùng với nhau một lớp suốt thời
trung học, có khi thầm yêu chung một cô bạn gái xinh mà chưa đứa nào dám
mở miệng. Chiến tranh không từ một ai, ném tất xóm quê lẫn hàng phố, kẻ
yêu lẫn kẻ chưa yêu vào cái mồm lúc nào cũng thèm thịt người và khát
máu tươi. Mùa mưa khốc liệt năm 1978, mặt trận biên giới Tây Nam đang
đói lính.
Hàng phố năm thằng trai ngố vào mặt trận, được chia về các đơn vị khác
nhau. ThằngVinh sang quân đoàn 3, lên hướng Snoul Mimut. Tụi thằng Bình,
Hiệp, Thọ, Tuấn Anh và tôi về quân đoàn 4, trụ vùng Chi Phu - Ba Vét.
Một quân đoàn có nhiều sư đoàn cùng các đơn vị khác nhau nữa. Cứ thế,
hàng phố bâng khuâng chia tay nhau về các đơn vị nhỏ, tiếp thêm cho tiền
duyên đất nước đang chảy máu một chút hồng cầu.
Tưởng bặt tin, nhưng số phận rồi cũng chiếu cố, sắp xếp cho các trai
hàng phố gặp nhau trên những nẻo đường chiến trận. Chúng tôi đánh vào ga
Rômia trên lộ 27, hộ tống xe tiếp đạn, giải vây cho trung đoàn và thông
đường chuyển tử sĩ ra ngoài Kampong Ch’nang. Nhà ga lúc này đang bị
địch bao vây, lộ 27 bị cắt. Xe chạy chậm rì giữa cánh đồng. Lính tiểu
đoàn ngồi trên xe căng mắt quan sát địch. Gần đến những điểm nghi có
phục kích, bộ binh lại nhảy xuống xe càn lên phía trước mở đường. Đồng
hoang đang cháy lem lém. Cỏ và chân rạ mù mịt bốc khói, liếm dần trên
mặt ruộng những đám tro đen xám. Từ những chòm thốt nốt lẫn cây bụi nhỏ
lúc hiện lúc khuất sau làn khói, địch bắn đoang đoác liên tục về hướng
có tiếng động cơ. Đơn vị lùi lũi tiến lên, không bắn trả vì địch không
dám tiếp cận. Một trái M.79 câu trúng sườn chiếc xe chở đồ, may mà không
trúng xe đạn pháo 105mm.
Tới cầu cháy gần ga, tiểu đoàn tôi bắt liên lạc được với trung đội chốt
đường của đơn vị bạn ra đón. Từ dưới con mương cạn, bước lên lừng lững
một thằng đen cháy, tay xách khẩu B.41. Trông nó như con ma mọi trong bộ
quần áo bẩn thỉu màu vàng đất. Con ma mọi bỗng quát lên gọi tên tôi.
Trời ơi thằng Hiệp. Nó vẫn sống, trời ơi! Không thể nói nên lời lúc ấy.
Nó như cảm giác bất ngờ gặp lại phố mình ngày cũ, như hờn tủi lần đầu
tiên bóc lá thư nhà. Hàng phố tranh nhau nói, nhưng nó nói to hơn tôi.
Những thằng điếc hay nặng tai thường nói to hơn người khác. Thằng này
điếc mẹ nó rồi, bởi ngày hôm đó đã phụt tới mười sáu trái B.41 vào đám
địch bu bám quanh cái cầu cháy này.
Thùng xe chở đồ dính trái M.79 bây giờ đã cháy ngún, bốc khói mịt mù.
Chúng tôi nhảy lên xe quăng đồ xuống. Nhiều chiếc ba lô đã cháy nham
nhở. Các hộp sữa mới lĩnh ban sáng phồng lên, méo mó bỏng rẫy. Gần vào
sát ga, tiểu đoàn vượt qua hai chiếc xe chở tử sĩ bị địch vây, chưa mang
ra Kampong Ch’nang được. Ruồi bay loạn, mù mịt trên đầu đoàn quân hành
tiến. Mùa khô gay gắt nắng nên thi hài tử sĩ mau trương. Anh em đơn vị
bạn phải chặt cành lá phủ lên chống ruồi và tưới nước cho mát để đỡ mùi.
Chuyện vội vài câu giữa hương nồng chết chóc, mừng vui xiết bao khi
nghe tin các bạn xưa vẫn đang còn ngày xanh, chưa thằng nào phải lên hai
cái xe kia nằm.
Các gã trai hàng phố chia tay nhau, mải mốt bước theo đơn vị của mình.
Ga Rômia
Tiểu đoàn 4 dự bị cho trung đoàn 1 đánh vỗ mặt địch, thọc sâu lộ 27 tiến
vào Amleang. Chúng tôi nằm trên sân ga đợi lệnh xuất phát.
Ga Rômia, cũng bé tẹo như mọi ga xép trên trái đất, với đường ke, nhà
chờ và tháp nước. Con đường sắt heo hút chạy giữa rừng dầu thưa, mùa khô
lá rụng vàng cháy. Nhà ga một tầng, lợp ngói đỏ, tường lỗ chỗ vết đạn
to nhỏ. Những kiến trúc còn lại nhắc nhở một thời yên bình. Nếu không có
tiếng gầm của pháo đội 105mm đang bắn quần quật ngay sau lưng, người ta
sẽ nghĩ chúng tôi là những hành khách nhàn tản, đang ngồi chờ một
chuyến tàu chiều.
Trên sân ga, hàng me keo cổ thụ xõa trùm bóng mát. Mỗi khi đại bác thụt
nòng, hơi gió giật thổi qua, những trái me keo chín xoăn lại rùng mình
quay vòng rụng xuống. Trái keo giống chiếc vòng tay tím đỏ màu thạch
lựu, nức nở mở lòng phô bày múi nhân trắng dịu bao quanh chuỗi hạt. Lính
thê đội 2 đợi lệnh vận động tấn công, đứa ngồi đứa nằm há miệng chờ keo
rụng. Nhằn trái keo ăn chơi như nhằn cục kẹo, thấy vị mát ngọt kèm theo
chút đắng. Cục kẹo đồng số phận chút nữa có vị gì hẳn chưa thằng nào
nghĩ đến, bởi chúng tôi đa phần còn rất trẻ.
Khẩu pháo 37mm hai nòng của địch trên trái núi thấp đằng trước hạ nòng,
bắn tà âm cản bộ binh. Tiếng đạn cao xạ nổ lốp bốp mé dãy thốt nốt đằng
trước. Tiểu đoàn bộ dạt sang bên tay trái, rúc vào một vườn cây thấp.
Tôi hỏi cây bàng à anh Ky, vì thấy lá cây nó giống lá bàng. Toàn cồ cười
hô hố, bảo, bàng rừng đấy, ăn đi. Hắn vặt những trái “bàng” chín đỏ
trên những cành thấp, nhét vào mồm nhai phọt nước. Anh Ky bảo cây điều,
ăn trái được. Một thứ trái cây kì lạ, láng mọng đỏ vàng thật đẹp mắt,
nhưng trôn lại lòi ra cái hạt phồng trông như con ve chó mập.
Đang khát nước nên tôi làm gần chục trái. Toàn cồ xui hạt nó cũng ăn
được, bùi lắm, mày ăn thử đi. Không chút nghi ngờ, tôi đưa cái hạt lên
miệng nhai. Những tia dầu trong vỏ hạt xốp tứa ra. Cảm giác rát bỏng đến
tức thời, làm phồng rộp lột da môi. Miệng cứng lại, nước dãi trào qua
rất rát. Toàn cồ lăn ra cười rất khả ố. Hắn lính đoàn Thanh Hóa vào năm
1977, hơn tôi hẳn một năm và to con gấp rưỡi. Cơn điên bùng lên, tôi vớ
được cái bi đông nhựa đầy nước, ném thẳng vào cái mặt đang nhăn nhở. Hắn
né được, nhảy vào định chụp tôi nhưng anh em xông vào kéo ra. Toàn cồ
vẫn còn tức, lầu bầu chửi suốt. Tôi muốn chửi lại nhưng không được vì
mồm sưng vêu do bỏng dầu sống hạt điều.
Câu chuyện lỡm nhau nhanh chóng đi qua. Tiểu đoàn nhận lệnh hành quân.
Chặng đường gian nan ác liệt đang chờ đằng trước, số phận biết đâu ai
mất ai còn. Nhưng cũng từ đó trung đội thông tin không bao giờ bố trí
Toàn cồ với tôi đi chung một máy nữa. Năm 2011, sau cuộc chiến hơn ba
mươi năm, tôi khấp khởi tìm về tận quê, xã Lương Sơn, huyện Thường Xuân
tìm anh Ky, Toàn cồ, Trung khói, để uống với nhau một trận quên sầu. Vào
cả ủy ban xã dò tin nhưng vẫn bặt vô âm tín. Chén rượu mừng kỉ nhân hồi
chưa rót đành vẫn bỏ dở dang.
Rùa vàng và tê tê
Chúng tôi rúc dài trong lòng một con suối cạn, giấu quân trốn nắng và
đợi lệnh luồn sâu. Hàng le khô dày hai bên bờ đan nhau như một mái vòm,
biến lòng suối thành một đường hầm cát ẩm. Những con rùa vàng to như cái
bi đông, lạt xạt rúc vội trong lớp lá le khô rụng. Toàn cồ hì hục trong
một cái hốc, lôi ra một con vật bốn chân mõm dài, thân phủ đầy vảy. Con
vật kì quái cuốn mình lại như một cái vỏ sên khổng lồ. Đó là một con tê
tê lớn. Hắn tai quái chẹn đầu gối lên con tê tê, nghiến răng cố kéo cái
đuôi nó duỗi ra nhưng không được. Anh Nhương cáu, quát: Mày thích chầu
ông vải à, có vứt nó đi ngay không? Toàn cồ hoảng sợ, lại bê con vật để
vào chỗ cũ rồi vạch dái tự đái vào tay nó để giải xui.
Chuyện kiêng cữ gặp rùa, gặp tê tê của lính trước khi vào trận đến bây
giờ tôi mới biết. Trước chỉ mới biết kiêng cơm khê, kiêng mặc quần áo
mới, kiêng sơ vin áo bỏ trong quần, kiêng bắt tay nhau và cắt tóc. Nói
chung kiêng tất những gì long trọng chỉn chu, giống như khi người ta
chuẩn bị chia tay để về bên kia thế giới. Áo quần sao tiết mới chỉ có
thể thấy trong các tấm hình liệt sĩ, nằm trên bàn thờ sau nải chuối
xanh. Giờ tự nhiên đi trận, có thằng bỗng nhiên lôi bộ quần áo tươm nhất
ra mặc. Lại sơvin cẩn thận, mỉm cười bắt tay anh em và nói những lời
linh cảm xa xôi thì kinh lắm.
Rùa, tê tê và cái nghi thức vạch dái đái tay kia ám ảnh tôi suốt buổi
chiều hành quân luồn sâu hôm ấy. Rừng khộp mùa khô khát khao, vàng cháy
thoi thóp dưới hoàng hôn. Tiểu đoàn lặng lẽ len qua giữa một quần thể
dầu rái lớn cao vòi vọi. Trên thân những cây dầu cổ thụ, địch đục vũm
vào thân cây những cái hốc sâu, đốt mồi trong đó để lấy dầu. Ngày tàn
chạng vạng, ánh lửa nhập nhoạng từ thân những cây dầu tối đen lừng lững
trông càng ma quái, khiến người ta nghĩ đến những ngọn đèn thờ. Tôi bỗng
nhiên thấy sợ, cố tình đi chậm lại, tránh xa thằng cha Toàn cồ tai quái
kia một đoạn. Biết đâu số phận ập oành một phát, chẳng phải đầu cũng
phải tai.
Chúng tôi dừng lại ở một cái phum cũ giữa rừng. Có thể nhận biết nơi đây
từng có người ở qua cây me, cây chùm ruột lẫn trong những khung nhà
xiêu vẹo. Các đại đội lặng lẽ bố trí đội hình. Cấm đốt lửa. Tôi bẻ nắm
cơm vắt được phát hồi trưa, chấm với bột gia vị nuốt nặng họng. Đêm rừng
hôm ấy tịch lặng và bí hiểm. Đâu đó xa xa vài tiếng súng lẻ không biết
ta hay địch vang lên rồi tắt ngấm. Sau tiếng súng, không gian như càng
im vắng hơn.
T.S
Nguồn: vannghequandoi.com.vn