Truyện Con gái thuỷ thần - Truyện thứ nhất viết vào lúc xã hội Việt Nam đang chuyển từ thời “bao cấp” sang thời “đổi mới”. Đây là lúc thời thế buộc nhà văn (người cầm bút) phải dấn thân. Thế nào là “nhà văn dấn thân”? Dưới đây là giải thích của Jean - Paul Strartre (qua lời dịch của Thuỵ Khuê) mà tôi muốn trích nguyên văn:
|
Nhà văn dấn thân có thể tầm thường, thậm chí biết mình viết dở,
nhưng không ai viết văn mà không muốn thành công, dù khiêm tốn thế nào,
hắn cũng vẫn phải xây dựng tác phẩm để nó sẽ có tiếng vang lớn. Hắn
không bao giờ được tự nhủ: “Thây kệ, tôi chỉ cần ba nghìn người đọc là
đủ” mà phải nghĩ: “Điều gì sẽ xảy ra nếu tất cả mọi người đều đọc”. Hắn
(nhà văn) biết rằng hắn là người đặt tên cho cái điều chưa có tên hay
chưa ai dám đặt tên và cùng với chúng là tình yêu và thù hận giữa những
người chưa dứt khoát với tình cảm của họ. Hắn (nhà văn) biết chữ là
những khẩu súng lục đã nạp đạn. Nếu hắn nói, là hắn bắn. Hắn có thể im
lặng, nhưng vì hắn đã chọn bắn, thì hắn phải bắn như một người lớn, tức
là bắn trúng đích, chứ không bắn như đứa con nít, nhắm mắt bắn bừa, cốt
để nghe tiếng súng nổ chơi. Vậy ngay từ bây giờ, ta có thể kết luận
rằng: nhà văn, đã chọn “vén màn” thế giới, một cách đơn phương, làm lộ
con người trước mặt mọi người, để cho tất cả đều nhìn thấy đối tượng
trần trụi trước mắt mà biết trách nhiệm của mình. Không ai có thể nói là
mình không biết pháp luật, bởi vì luật pháp luôn luôn được viết thành
văn, cũng không ai cấm anh phạm luật, nhưng anh biết trước là nếu phạm
luật thì anh sẽ bị tội gì. Chức năng của nhà văn cũng tương tự như thế,
tức là anh phải làm thế nào để cho không ai có thể chối cãi là mình
không biết đến thế giới xung quanh, và cũng không ai có thể chối cãi là
mình vô tội vạ. Một khi đã trót dấn thân vào thế giới chữ nghĩa rồi, thì
anh không còn có thể giả vờ bảo rằng tôi không biết nói (tôi không biết
bắn) nữa…”
Truyện
Con gái thuỷ thần - Truyện thứ nhất sau 30 năm vẫn được in lại. Thật đúng là "
Có thời có tự mảy may…”
NGUYỄN HUY THIỆP
8/3/2018
Cái tình chi
Mượn màu son phấn ra đi…
(Lời hát cổ)
Chắc nhiều người còn nhớ trận bão mùa hè năm 1956.
Trận bão ấy, ở bãi Nổi trên sông Cái, sét đánh cụt ngọn cây muỗm đại
thụ. Không biết ai nói trông thấy có đôi giao long quấn chặt lấy nhau
vẫy vùng làm đục cả một khúc sông. Tạnh mưa, dưới gốc cây muỗm, có một
đứa bé mới sinh đang nằm. Đứa bé ấy là con thuỷ thần để lại.
Dân trong vùng gọi đứa bé ấy là Mẹ Cả. Ai nuôi Mẹ Cả, tôi không biết,
nghe phong phanh trong từ đền Tía đón về nuôi. Lại đồn thím Mòng trên
phố chợ đón về nuôi. Lại đồn các xơ trong nhà tu kín đón về, đặt tên
thánh cho Mẹ Cả là Gianna Đoàn Thị Phượng.
Chuyện Mẹ Cả ám ảnh tôi suốt thời niên thiếu. Một bận, mẹ tôi đi chợ
Xuôi về, kể chuyện Mẹ Cả cứu hai cha con ông Hội bên Đoài Hạ. Ông Hội
làm nhà, mang đứa con gái tám tuổi đi đào cát. Hố cát khoét hàm ếch, sụt
xuống, vùi lấp cả hai cha con. Mẹ Cả đang bơi trên sông, trông thấy,
hóa phép thành con rái cá ra sức đào bới cứu được hai người.
Một lần, ông Tư Chung đào giếng bảo đào được cái trống đồng. Phòng văn
hoá huyện về xin mang trống đi. Khi qua sông, tự dưng sấm chớp đùng
đùng, sóng gió lớn cộn lên. Mẹ Cả bơi trên sông bảo: “Vứt trống xuống
đây”. Thuyền chòng chành sắp ụp, mọi người đành vứt trống xuống cho Mẹ
Cả. Mẹ Cả ngồi trên mặt trống đánh thùng thùng. Thế là sấm tan mưa tạnh.
Mẹ Cả ôm trống lặn xuống đáy sông.
Chuyện Mẹ Cả lung tung lắm, nửa hư nửa thực. Tuổi thơ của tôi u buồn và
bề bộn việc, mà việc nào cũng vất vả cả, tôi chẳng có thì giờ để ý đến
chuyện người dưng.
Nhà tôi làm ruộng, đào đá ong và làm thêm nghề lột giang đan mũ. Làm
ruộng chẳng nói ai cũng biết rồi, chẳng dễ dàng gì. Mười bốn tuổi, tôi
là thợ cày chủ lực trong hợp tác xã. Bốn giờ sáng, ông đội trưởng đội
cày gọi cổng: “Chương ơi, hôm nay cày chân ruộng Gò mả nguỵ nhé!”. Thế
là tôi bổ dậy, ăn vội ăn vàng bát cơm nguội rồi đi. Trời còn tối, chuột
đồng chạy rào rào trong các vạt ngô ven bãi. Tôi nửa thức nửa ngủ, chân
nam đá chân chiêu, cứ nhằm phía quầng sáng điện thị xã mà đánh trâu đi.
Chân ruộng Gò mả nguỵ ở đó. Đây là chân ruộng xấu nhất cánh đồng, đất
cằn bạc phếch bạc phơ, thỉnh thoảng lại có đá ngầm. Tôi cày một mạch đến
trưa, thấy đứng bóng thì tháo trâu về. Mẹ tôi bảo: “Chương ơi, ông
Nhiêu dặn đá ong nhà mình tháng này thiếu tám chục viên, hôm trước bố
con mới nộp hơn bốn trăm viên”. Tôi vác thuổng đi lên đồi Sậy. Đá ong
đồi Sậy thường chỉ đào được sáu lớp thì hết một vỉa, đến lớp đất thịt.
Đá ong chỉ đào được những hôm nắng. Hôm mưa thì bùn nhão nhoét, đỏ cành
cạch, đá bở. Thường một buổi chiều cật lực, tôi đào được hai chục viên.
Ông Nhiêu đi qua khen: “Có nghề lắm. Ngày xưa tao đào có lần xắn mẹ phải
ngón chân cái”. Ông chìa bàn chân đi dép cao su cho tôi nhìn thấy ngón
chân bị cụt. Chân của ông Nhiêu là chân Giao Chỉ, ngón cái không thẳng
mà toẽ hẳn ra. Chân này chắc chẳng giầy nào vừa được. Buổi tối, tôi ngồi
lột nan. Giang mua của cánh lái bè, về cạo ra, chặt bỏ mấu, pha nhỏ,
cho vào nồi luộc. Sau đó phải hấp diêm sinh, mang đi phơi khô, bó lại
gác lên nóc nhà. Khi làm thì ngâm vài ngày rồi lấy dao lột. Lột giang
phải thật cẩn thận, lột bằng thứ dao đặt ở thợ rèn, lưỡi mỏng dính, đứt
tay như chơi. Khi lột, lòng, cật để riêng, sau đó tách thành từng sợi
đều đặn thuê trẻ con đan. Mỗi cuộn là hai chục mét, bán cho người có máy
khâu may mũ. Mẹ tôi bảo: “Nghề này chẳng giàu được đâu nhưng mà có việc
quanh năm để trẻ khỏi nghịch”. Những đứa em tôi, bốn tuổi đã biết đan
rồi, tay cứ nhoay nhoáy suốt ngày, đi đâu cũng có bó nan cắp nách. Gà
gáy canh ba tôi mới đi ngủ. Một ngày đầy ắp công việc. Giấc ngủ kéo đến.
Hình ảnh Mẹ Cả chen vào giấc ngủ ở một khe hở nào đó rất nhỏ, không
phải thường xuyên, tôi không chắc một năm đã được một lần.
Một dạo ông Hai Thìn bấy giờ lên chức Chủ nhiệm Hợp tác xã bảo tôi:
“Chương này, trai tráng trong làng đi bộ đội cả, mày thật thà, tao tính
rút mày lên làm kế toán, nhưng mày trình độ văn hoá kém quá, thôi mày
làm ban kiểm tra với bảo vệ vậy”. Tôi hỏi: “Làm ban kiểm tra thì phải
làm gì? Làm bảo vệ thì phải làm gì?”. Ông Hai Thìn bảo: “Ban kiểm tra là
xem chúng tao có ăn bớt ăn xén gì không thì mách ông Phượng Bí thư xã
biết. Làm bảo vệ thì hợp tác xã có bãi mía đấy, quân bãi Nổi cứ đến ăn
trộm, mày vác súng ra, thấy đứa nào ăn trộm thì bắn chỉ thiên cho chúng
nó sợ”. Tôi bảo: “Ban kiểm tra cháu chẳng làm đâu, hay gì chuyện mách
lẻo. Cháu làm bảo vệ”.
Bãi mía ven sông rộng vài chục mẫu, gác cũng khó. Tôi làm một cái chòi,
lên đấy nằm đọc truỵên. Đọc chẳng vào. Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không
biết. Có lần mơ thấy đi cày, cày hết chân ruộng Gò mả nguỵ thì đến thị
xã, cứ cày mãi, dân thị xã phải dắt nhau chạy. Có lần mơ thấy đào đá
ong, xắn phải ngón chân cái, một lúc sau ngón chân lại tự mọc ra, lại
xắn phải lần nữa, cứ thế vài chục lần, lần nào cũng đau lắm. Lại có lần
mơ thấy lột giang, dao cứa đứt cả ngón tay, khi ăn cơm phải vục mặt
xuống như chó. Đại để giấc mơ của tôi là thế, toàn những việc làm hàng
ngày, chẳng ra gì cả. Đấy là tôi nghèo tưởng tượng, sau này khôn lớn tôi
mới hiểu ra, chứ lúc ấy, mười sáu tuổi tôi có biết gì.
Một buổi, trăng rất sáng, tôi nhớ đận ấy vào dịp tháng Bẩy, tôi đi gác
quanh bãi mía. Ánh trăng soi rõ mồn một, trông thấy cả những rễ mía
trông hơi giống đầu rễ si đâm tua tủa ở các đốt cây. Rặng mía hắt bóng
thẫm đen chạy dài trên mặt cát đã bị gió làm cho khô se đi nên rất mịn.
Thỉnh thoảng, gió đùa rào rào, trong bãi mía nghe lạnh cả người. Tôi
nghe thấy tiếng mía đổ, chạy ra, thấy mía nằm ngổn ngang trên cát, trông
xót lắm. Tôi điên người, bắn một phát súng chỉ thiên. Năm, sáu đứa trẻ
con trần truồng chạy ào ra. Một đứa con gái chừng mười hai tuổi có vẻ
như tên cầm đầu còn kéo theo cả một cây mía chạy. Tôi gào lên: “Đứng
lại!”. Bọn chúng hoảng hốt lao xuống nước, cuống cuồng bơi về phía bãi
Nổi.
Tôi vứt súng, cởi quần áo, cũng nhảy xuống sông. Tôi quyết bắt cho được
một đứa. Bắt được một đứa sẽ truy cả bọn, công an vẫn thường làm thế.
Đứa con gái kéo cây mía bơi tách ra, đạp nước loạn xạ, có vẻ như không
biết bơi, lại bơi ngược dòng nên rất chậm. Tôi bơi đuổi theo. Nó quay
lại nhìn tôi lè lưỡi ra, rất tinh nghịch. Tôi bơi chặn đầu, con bé té
nước vào mặt tôi. Tôi lặn xuống nước, ước lượng khoảng cách để tóm chân
nó. Con bé vùng thoát được. Cứ thế mãi. Con bé bơi ở phía trước, lúc nào
cũng giữ khoảng cách không xa với tôi. Tới gần nửa tiếng đồng hồ trôi
qua mà tôi không bắt được nó. Tôi bỗng hiểu ra đối thủ của tôi rất sành
sông nước, bắt được không phải chuyện đùa. Con bé lỡm tôi để cho bọn kia
trốn thoát. Con bé vừa bơi vừa trêu. Tôi tức lắm, đập nước sải cánh
đuổi theo. Con bé cười khanh khách, bơi nhanh ra giữa tim sông. Nó bảo
tôi: “Quay về đi, không mất súng thì chết!”. Tôi giật mình, thấy nó nói
đúng. Con bé bảo tôi: “Mày không bắt được tao đâu, bắt thế nào được Mẹ
Cả!”. Tôi hoảng hốt, dựng cả tóc gáy. Chẳng lẽ đây là con gái thuỷ thần!
Nước tạt cả vào mặt tôi ướt sũng. Tôi thoáng thấy tấm lưng trần dẻo dai
loáng nước quẫy ở trước mặt, loang loáng dưới trăng, thật kinh dị,
nhưng đẹp lắm. Thoắt nhiên, tất cả biến mất, tôi bỗng trơ ra giữa dòng
sông vắng mênh mông. Tất cả như chẳng hề xẩy ra chuyện gì. Dòng sông vẫn
cứ như thế từ lâu lắm rồi, từ hôm qua, hôm kia, từ năm trăm năm trước.
Tôi thấy ngượng ngùng. Nửa đêm, tự dưng lại đi trần truồng bơi ở trên
sông, khua khoắng lên, mà vì cái gì cơ chứ! Dăm cây mía có đáng là bao?
Khi thu hoạch, hợp tác xã vứt đi hàng đống. Hoặc mùa nước, chỉ một trận
lụt là vứt đi hàng mẫu là thường. Tôi bỗng thấy buồn, mặc kệ dòng nước
đẩy dạt vào bờ. Hóa ra chẳng phải mất nhiều, chỉ vài ba cây. Tôi ngồi
xuống bẻ một dóng mía ăn. Mía nhạt thếch. Tôi vứt dóng mía rồi trở về
chòi, nằm thao thức đến sáng. Tôi cố nhớ lại khuôn mặt Mẹ Cả mà không
nhớ được. Cứ nhắm mắt lại là thấy toàn mặt quen, tựa như mặt bà Hai Khởi
vừa tròn vừa to, mũi trông như vỏ cam sần, hoặc như mặt chị Vĩnh, dài,
mà tai tái như dái trâu, như mặt cô Hỷ, đỏ như tôm luộc, mặt anh Dư,
xương hàm bạnh ra như mặt ngựa. Chẳng có khuôn mặt nào đáng là mặt
người. Mặt nào trông cũng thú vật, đầy nhục cảm, không đểu cáng, dối trá
thì cũng nhăn nhúm đau khổ. Tôi tìm một mảnh gương vỡ soi thử mặt mình.
Mảnh gương bé quá, không rõ hết mặt. Chỉ thấy trong gương một đôi mắt
đờ dại nhìn mình như mắt tượng gỗ trên chùa.
Cuối năm ấy, tôi rút khỏi chân bảo vệ, chuyển sang đội thuỷ lợi. “Nhất
thổ, nhì mộc”, công việc xắn mai bốc đất vất vả nhưng tôi sức trẻ nên cứ
phăng phăng. Bẵng đi ba năm, hơn nghìn ngày. Kể đất tôi vác có khi đắp
được một trái núi con. Thế nhưng quê tôi nào đâu có núi non gì, chỉ bằng
phẳng những cánh đồng cằn, những con mương chạy ngang dọc khắp chốn
cùng nơi mà đất vẫn khô nẻ.
Năm 1975, đấy là một năm đáng để quan sát ghi nhớ. Quê tôi mở hội rất
to. Thi bơi chải trên sông, thi vật, đội văn công tỉnh về biểu diễn. Các
đô vật ở Đoài Hạ thắng đậm các đô vật khác trong vùng. Dân bãi Nổi táo
tợn là thế, cử ra bốn đô vật đều bị loại từ vòng đầu. Hạ được bãi Nổi,
Đoài Hạ được thể. Đô Thi thúc trống hỏi to: “Không có ai vào xới thì tôi
lấy giải về cho Đoài Hạ đây này”. Trai làng tôi tức lắm, xui tôi vào
xới. Thú thực, tôi không thạo vật, nhưng tôi có sức. Tay tôi đã bám vào
đâu thì thật như kìm, nội công ngoại lực gì tôi không biết, nhưng tôi đã
bóp, gạch cũng nát vụn.
Tôi cởi quần áo, mặc độc cái quần đùi nâu. Mọi người cười ồ. Người ta
giải thích dài dòng rắc rối, đại để tôi muốn giật giải phải vật với
những năm người. Trai làng tôi không chịu, cãi nhau om lên, cuối cùng đi
đến thoả thuận là tôi phải vật thắng hai người khác mới được vật đô Thi
là người đang nhiều điểm nhất.
Đô Tiến vào xới. Tôi xông vào ngay. Đô Tiến cũng khoẻ, khoèo chân tôi.
Những hơn nghìn ngày lội bùn vác đất nên chân tôi chắc lắm, cắm xuống
như cọc. Đô Tiến xoay ngang, xoay dọc mà tôi vẫn đứng trơ trơ. Hai tay
tôi tóm được hai bả vai đô Tiến, cứ thế bóp. Độ ba phút thì đô Tiến đờ
ra, mặt tái nhợt, cứ thế qụy xuống. Trọng tài tuyên bố tôi thắng cuộc.
Đến lượt đô Nhiêu. Đô Nhiêu bé nhỏ, nhanh nhẹn. Hắn nhảy như con choi
choi, luồn lách rất khéo. Chỉ sau vài miếng, tôi biết đô Nhiêu lập kế
lừa tôi, hắn chỉ chờ tôi đứng lệch trọng tâm là phục xuống bốc, dùng vai
gồng ngã. Biết thế tôi bèn đứng né chân chèo, người hơi ngả ra. Đô
Nhiêu cúi xuống, luồn đầu vào hai chân tôi, định hất lên, thế võ rất ác.
Tôi đổi chân, khép gối lại dùng hết sức lực tóm hai mạng sườn, bóp
mạnh. Đô Nhiêu oằn oại như con rắn lớn. Một lúc thấy không quẫy được
nữa, tôi mới đặt hắn ngửa ra, vỗ hẳn vào rốn. Tiếng reo như sấm. Có ai
nhét vào tay tôi một đoạn mía ngắn đã tiện dóc rồi. Mọi người xúm xít,
lấy áo phẩy vào mặt tôi giống như kiểu người ta săn sóc võ sĩ quyền anh.
Trống lại nổi lên. Đô Thi to con, hai mắt như mắt lợn luộc. Hắn dạo một
đường quyền ngắn trông rất đẹp mắt. Nhiều tiếng xuýt xoa. Tôi cứ lừ lừ
đi vào. Đô Thi đứng trước mặt tôi gườm gườm: “Muốn sống chịu thua ngay
đi, con ạ!”. Tôi bảo: “Dễ thế!”. Đô Thi chửi: “Mẹ mày! Giữ lấy cái mũi!
Ông sẽ cho mày sặc tiết cho xem!”. Hắn lao vào ngay, đầu gối giơ lên rất
nguy hiểm.
Đến hơn mười phút, đô Thi không vật được tôi. Hắn giở thế võ đánh ngầm.
Hắn dùng cùi tay, đầu gối đánh tôi. Trận đấu căng thẳng. Trọng tài là
người Đoài Hạ, đáng lẽ bắt lỗi nhưng cứ lờ đi. Tôi tức lắm, vừa đỡ vừa
hỏi: “Vật nhau hay là đánh nhau thế này?”. Đô Thi bảo: “Mẹ mày! Ông đánh
cho mày chết mẹ mày đi!”. Trống thúc dồn dập, mọi người reo hò nhưng
không có ai đứng ra ngăn cản. Rất nhiều tiếng gào khuyến khích đô Thi.
“Đánh đi, đánh cho chết mẹ nó đi!”. Một nỗi căm giận trào lên trong tôi.
Tôi thấy mắt tôi hoa lên, tai tôi ù đi, máu trào mằn mặn trên môi. Đô
Thi nhảy đá song phi, tôi tránh được, thuận tay bắt được cổ chân. Đô Thi
giằng ra nhưng hai tay tôi như hai kìm sắt. Đô Thi lăn lộn trên sàn.
Tiếng gào: “Thua rồi, thua rồi” ầm ĩ cả lên. Trọng tài bảo tôi vật không
đúng luật. Tôi chẳng nói chẳng rằng, gạt ông ta ra, cứ thế đi đến bàn
ôm bọc giải thưởng đi xuống. Có ai vỗ vào vai tôi: “Khá lắm! Du côn
lắm!”. Tôi không hiểu nghĩa hai chữ du côn, chắc nó tỏ ý khen ngợi.
Ra khỏi xới vật, tôi rẽ vào hàng mua cho các em gói kẹo, cho mẹ chiếc
lược rồi đi tắt cánh đồng, qua bãi về nhà. Đến sông thì chập choạng tối.
Ở khúc quặt bỗng có tốp người hùng hổ xông ra, đi đầu là đô Thi, đô
Nhiêu, đô Tiến. Đô Thi bảo: “Muốn sống đứng lại!”. Tôi hỏi: “Cướp đường
à?”. Bọn kia không nói năng gì xông vào đánh ngay. Tôi đánh trả lại cũng
ác, nhưng thân cô thế núng, lát sau tôi ngất lịm đi. Khi tỉnh lại tôi
thấy mình nằm trên ổ rơm, người đau ê ẩm. Mẹ tôi hỏi: “Con có đau
không?”. Tôi gật đầu. Mẹ tôi khóc: “Chương ơi, con ra tranh hơn thiên hạ
làm gì? Mang thân mua vui cho người có nhục không con?”. Tôi âm thầm
khóc, thấy mẹ tôi nói phải. Mẹ tôi bảo: “Hứa với mẹ đi, đừng bao giờ
thế!”. Tôi thương mẹ tôi nên hứa, nhưng nghĩ lần sau đi đâu phải dắt
theo dao. Tôi hỏi mẹ tôi: “Ai cứu con?”. Mẹ tôi mỉm cười: “Mẹ Cả cứu”.
Tôi định hỏi thêm, nhưng mẹ tôi đã ra ngoài, đi sao lá cúc tần sắc cho
tôi uống.
Tôi hồi phục sức khoẻ rất nhanh, chủ yếu do trẻ trung, chẳng phải do
thuốc. Thuốc có gì đâu chỉ có lá cúc tần sao khô vừa bóp vừa uống. Khi
đi lại được, ý nghĩ đầu tiên của tôi là vác dao tìm đến đô Thi. Thế
nhưng hợp tác xã cử tôi đi học một lớp nghiệp vụ kế hoạch ở trên thị xã,
giấy báo tập trung gấp quá, tôi đành bỏ dở ý định trả thù.
Lớp học chúng tôi có ba mươi người, học trong sáu tháng. Chúng tôi được
học các môn chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch sử, chính trị kinh tế học,
các nghiệp vụ quản lí kế toán. Lần đầu tiên tôi biết những danh từ, khái
niệm, thuật ngữ rất lạ. Tôi háo hức vô cùng. Sau vài hôm tôi đau đớn
nhận ra tôi không học được. Chữ nghĩa cứ chuội đi, tôi không làm sao
phân biệt được các nguyên tắc nhờ thu nhận trả, các tài khoản, các biểu
thống kê, cũng như không hiểu nổi khái niệm duy tâm, duy vật. Phép biện
chứng theo tôi là sự tiến lên, bất chấp khó khăn, đại để như giấc mơ của
tôi cày Gò mả nguỵ. Quy luật phủ nhận, tôi nghĩ nó giống như trận đòn
thù đê tiện của bọn đô Thi, tôi căm ghét nó, nó thành quy luật thì phải
trả thù, phải nện đau hơn nó đã nện mình. Tôi học lịch sử, hoàn toàn lẫn
lộn về cách phân kì. Các thày cô giáo rất ức, bảo tôi không có khả năng
học tập.
Cả lớp không ai thích tôi. Tôi làm mất điểm thi đua. Tôi lố bịch nữa. Cả
lớp không ai ăn mặc như tôi. Họ mặc lối thị xã, đẹp thật, tôi cũng rất
thích nhưng vì không tiền phải chịu. Tôi mặc quần nâu áo xanh trứng sáo.
Còn ăn, mọi người ăn chung, tôi nấu ăn riêng. Ăn chung có mức, tôi ăn
tám, chín bát cơm một bữa, ngày ba bữa, mức nào chịu được.
Ở trong lớp, tôi ngồi một xó, tha hồ ngủ gật. Các thầy cô giáo chán nản,
thôi hành hạ tôi, bài kiểm tra nào cũng cho điểm năm là điểm trung
bình.
Gần tan lớp học, trên bỗng cử cô Phượng về dạy môn kế toán. Cô Phượng
học nước ngoài về, tính vui nhộn. Cô mặc quần bò, áo phông, áo bỏ trong
quần, vai đeo túi, trông giống diễn viên điện ảnh.
Trả bài kiểm tra, cô Phượng bỗng hỏi: “Ai tên là Chương?”. Tôi bảo: “Em
đây”. Cả lớp cười ồ, vì cô Phượng trẻ, chỉ bằng tuổi tôi. Cô Phượng nín
cười, bảo: “Tôi không hiểu nổi bài viết của anh. Đường lối kế toán của
anh đặc biệt bí hiểm”. Cả lớp lại cười. Cô Phượng bảo: “Hết giờ mời anh
gặp tôi. Tôi sẽ giảng lại cho anh về các quy luật kinh tế”.
Hết giờ buổi chiều, tôi tìm cô Phượng. Người ta bảo cô vừa phóng xe máy
ra sông. Tôi buồn rầu, khoác cái xắc cốt để sách vở, tiền nong, giấy tờ,
bỏ đi lang thang.
Loanh quanh thế nào, tôi vòng ra phía bờ sông, bỗng thấy cô Phượng đang
ngồi một mình, bên cạnh có chiếc xe máy. Quang cảnh cũng hệt quê tôi,
phía trước là sông, phía sau là bãi mía.
Tôi đến gần, thấy cô Phượng khóc, hai tay ôm mặt, bả vai rung rung. Tôi
ấp úng chào. Cô Phượng giật mình, ngẩng lên thấy tôi, bèn giận dữ: “Cút
đi, cái lũ đàn ông khốn kiếp các anh!”. Tôi kinh hoàng ngơ ngác, chôn
chân tại chỗ. Cô Phượng cầm dép ném vào mặt tôi. Dép cao gót, có đinh,
tôi tránh không kịp, mặt bị chảy máu. Máu chảy nhiều quá, tôi ngồi thụp
xuống, hoa cả mắt. Cô Phượng chạy lại, quỳ xuống gỡ hai tay tôi, hốt
hoảng: “Anh có sao không? Trời ơi, sao tôi rồ dại thế này!”.
Tôi xuống sông, vã nước rửa vết đau. Cô Phượng cứ loay hoay bên tôi, rối
rít xin lỗi. Tôi cho cô Phượng xem những vết sẹo trên vai, trên tay mà
bọn đô Thi đánh tôi. Tôi bảo: “Không sao cô ạ. Vết thương như thế có
gì”. Cô Phượng bảo: “Tôi xin lỗi anh. Tôi gặp chuyện buồn nhiều quá. Tôi
không kìm chế nổi mình”.
Cô Phượng lấy bánh mì, lấy chuối ép tôi ăn. Cô Phượng nói: “Anh tha thứ
cho, tôi yêu, tôi bị phản bội. Tôi không chịu nổi. Nếu anh có yêu anh
mới hiểu”. Tôi bảo: “Tôi chưa yêu. Nhưng tôi nghĩ nếu ai phản bội lại
tình yêu thì xấu xa lắm”. Cô Phượng cười đau đớn: “Anh chẳng hiểu gì, kẻ
phản bội cũng là người tốt, có điều người ta không dám hi sinh”.
Cô Phượng ngồi, tay bó gối, trông vừa bé nhỏ, vừa buồn, lại đẹp nữa.
Trong tôi trào lên cảm giác thương xót, tựa như thương xót chính em gái
tôi.
Cô Phượng bảo: “Tôi đã không đúng. Người ta không dám hi sinh vì tôi là
phải. Tôi là đứa con gái xấu xí, phải không nào?”. Tôi lắc đầu, tôi
nghĩ, người nào được yêu cô Phượng thì thật hạnh phúc. Tôi bảo cô:
“Không phải đâu, cô đẹp lắm”. Cô Phượng cười. Cô cầm cái xắc cốt của tôi
đập đập: “Anh đựng cái gì ở trong này thế?”. Tôi ngượng ngập bảo: “Có
sách vở, tiền nong, chứng minh thư, thẻ Đoàn”. Cô Phượng bảo: “Anh
Chương này, nếu anh yêu, anh có dám hi sinh vì người yêu không?”. Tôi
bối rối không biết trả lời ra sao. Cô Phượng bảo: “Thế này nhé: Nếu tôi
yêu anh, anh có dám vứt cái túi này xuống sông không?”. Tôi gật đầu. Cô
Phượng bảo: “Anh vứt đi”. Tôi đứng lên cầm cái xắc cốt quẳng ra giữa
sông. Cái xắc cốt chìm ngỉm. Cô Phượng ngạc nhiên, mặt tái đi: “Anh có
dám phá tan cái hàng rào kia hay không?”. Tôi lẳng lặng đến hàng rào bao
quanh bãi mía, co đứt dây thép gai, nhổ các cọc sắt, uốn cong lại, vứt
dưới chân cô.
Cô Phượng bảo: “Anh lại đây”. Cô ôm cổ tôi, hôn lên môi. Tôi đờ đẫn. Cô
Phượng bảo tôi, cô rất sung sướng: “Anh biết không, thế mà tôi đã buồn
phiền vì một tên đàn ông ích kỉ. Thật chẳng ra sao!”. Cô Phượng lên xe
máy phóng đi, quay lại bảo tôi: “Anh hãy quên những quy luật kinh tế
chết tiệt ấy đi”.
Tôi sửng sốt. Cái hôn bất ngờ làm tôi ngây ngất. Tôi thấy sung sướng. Cứ
thế tôi lội xuống sông, bơi sang bên kia rồi lại bơi về. Trăng vẫn
sáng, tôi thấy cuộc đời thật đẹp tuyệt vời.
Sau hôm ấy, hai hôm sau giải tán lớp học. Cô Phượng không đến, nghe nói
có việc phải đi Hà Nội. Tôi buồn rầu thu dọn đồ đạc, chào mọi người rồi
đi về làng.
Tôi về làng được cử làm kế toán trưởng. Được một tháng, ông Hai Thìn
bảo: “Mày học hoài cơm”. Người ta cách chức tôi, tôi cũng chẳng lấy thế
làm buồn. Tôi trở lại công việc bình thường, công việc của mười năm
trước: sáng đi cày, chiều đào đá ong, tối lột giang đan mũ. Công việc
nặng nề, nhưng tôi khôn nguôi nhớ về cô Phượng.
Một lần, tôi kiếm cớ lên thị xã, rẽ vào trường cũ để thăm cô Phượng. Ở
đây chẳng còn ai nhận ra tôi. Ông thường trực hỏi: “Cậu hỏi Phượng nào?
Trường có nhiều Phượng lắm: Trần Thị Phượng, Quách Thị Phượng, Lê Thị
Phượng. Có cô cũng trạc tuổi cậu, cô ấy đi khỏi trường rồi. Cô ấy ngày
xưa ở nhà tu kín, tên thánh là Gianna Đoàn Thị Phượng”. Tôi giật mình,
sững sờ nghĩ đến giai thoại ngày xưa kể về Mẹ Cả.
Ông thường trực không biết gì thêm. Đang nghỉ hè, sân trường vắng ngắt
tôi lang thang ở trong thị xã, không biết hỏi ai. Cuối cùng tôi nảy ý
định vào nhà tu kín.
Bà Nhất tiếp tôi. Bà đã luống tuổi, có đôi mắt hết sức u sầu. Bà Nhất
bảo: “Gianna Đoàn Thị Phượng ở nhà tu này từ sáu đến mười hai tuổi. Cha
mẹ cô ta nhờ tôi nuôi dạy”. Tôi ngạc nhiên: “Sao bảo Gianna Đoàn Thị
Phượng là Mẹ Cả, là con gái thuỷ thần?”. Bà Nhất bảo: “Cha mẹ Gianna
Đoàn Thị Phượng ngoài Hà Nội. Cô ấy là con riêng ông Đoàn Hữu Ngọc, buôn
nước mắm”. Tôi thẫn thờ buồn bã ra về. Bà Nhất bảo: “Tôi không biết Mẹ
Cả của anh, còn Gianna Đoàn Thị Phượng là con của Chúa. Ông Đoàn Hữu
Ngọc gửi con vào nhà Chúa như gửi con vào nhà trẻ, nhưng Chúa không
giận. Chúa tha thứ, Chúa vốn nhân từ”.
Đêm ấy, tôi ngồi ngoài hè tường nhà tu kín. Đường phố thị xã xe chạy ầm
ầm tôi không ngủ được. Sáng sớm hôm sau, tôi xuôi đường đê tìm về đền
Tía.
Đền Tía ngay sông, chênh vênh trên một kè đá xây rất công phu. Ông từ
giữ đền Tía tên Kiệm, làm nghề đánh cá, trạc sáu mươi tuổi, ở ngay trong
đền. Tôi vào trong đền, thấy cá phơi đầy sân, gác cả trên hai thanh cột
quá giang. Ông Kiệm cho tôi nhấm rượu cá nướng. Ông Kiệm bảo: “Tôi giữ
đền này hơn bốn mươi năm, ở một mình nuôi mỗi con rùa làm bạn”. Ông chỉ
cho tôi con rùa buộc dây nằm dưới gậm giường. Tôi hỏi ông về Mẹ Cả. Ông
Kiệm bảo: “Tôi không biết. Nhưng trận bão ấy thì nhớ, sét đánh cụt ngọn
cây muỗm ở trên bãi Nổi, cậu phải về đấy hỏi xem”.
Tôi ở chơi với ông Kiệm buổi sáng, dọi giúp chỗ mái đền dột. Buổi trưa, tôi chào ông Kiệm, tắt đồng đi về bãi Nổi.
Đường về bãi Nổi đi qua Đoài Hạ, tôi hỏi thăm nhà ông Hội, nghe nói ngày
xưa cha con ông được Mẹ Cả cứu. Ông Hội đã già, lẫn lộn cả. Ông Hội
bảo: “Đào cát. Khoét hàm ếch. Sụt xuống. Nặng lắm, máu ộc ra…”. Hỏi gì
cũng chỉ nói từng ấy tiếng. Con trai ông Hội bảo tôi: “Ông cụ có nhớ gì
đâu, tai điếc ba bốn năm rồi”. Tôi buồn rầu, chào cha con ông rồi về.
Tôi bơi qua sông, đến bãi Nổi. Cây muỗm đại thụ bị sét đánh bao nhiêu
năm khô xác, dưới gốc cây, bọn trẻ đốt lửa làm thành cái hốc lõm sâu đen
sì. Tôi rẽ vào một túp lều canh lưới cạnh đấy. Tôi ngó vào rùng mình
thấy trong xó tối có một lão già nằm trên ổ rơm dưới đất. Thấy tôi lão
già hỏi: “Đô Thi đấy à?”. Lão già ngỏm lên, tôi kinh hoàng thấy lão già
chẳng khác gì ma quỷ, râu tóc lởm chởm, đôi mắt đục ngầu. Tôi đoán lão
già bị liệt, hai chân teo lại, lông chân trông như lông lợn. Tôi chào
lão già, ngạc nhiên thấy lão anh minh lạ thường, nói năng rành rọt. Một
lúc sau, qua câu chuyện, tôi biết lão già là bố đô Thi ở bên Đoài Hạ.
Lão già bị liệt mấy chục năm rồi, chỉ nằm một chỗ trông lưới.
Trò chuyện mãi, tôi hỏi lão già về chuyện Mẹ Cả. Lão già ôm bụng cười
lăn lộn, đôi chân liệt bất động trông rất đáng sợ. Tôi chưa thấy ai
khủng khiếp như vậy. Lão già bảo tôi: “Mày có trông thấy cái nia rách
kia không? Đôi giao long quấn nhau ở trong ấy đấy…”. Lão già lại cười.
Tôi kinh hoàng sợ hãi. Lão già lại bảo: “Hồi ấy tao chưa bị liệt. Tao
bịa ra chuyện Mẹ Cả. Ai cũng tin. Mộ Mẹ Cả kia kìa, mày muốn biết hình
Mẹ Cả đào lên mà xem”. Lão già chỉ một nấm đất gần kề gốc muỗm. Tôi lấy
chiếc mai trong lều ra chỗ nấm đất, đào lên. Tôi đào theo kiểu người ta
vẫn đào khi bốc mộ. Được hơn một mét, tôi lôi dưới ấy lên một khúc gỗ
mục chẳng hình thù gì. Tôi ngồi rất lâu bên khúc gỗ ấy. Lão già ma quỷ
cũng đã thôi cười, bây giờ chắc ngủ trong lều.
Trước mặt tôi, dòng sông đang thao thiết chảy. Sông chảy ra biển. Biển
rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển, mà tôi sống nửa cuộc đời rồi đấy… Thời
gian cũng thao thiết trôi. Chỉ ít năm nữa đến năm 2000…
Tôi đứng lên, đi về nhà. Ngày mai tôi đi ra biển. Ngoài biển không có thuỷ thần.
1988
N.H.T
Nguồn: vannghequandoi.com.vn