Sinh
ngày 5/5/1818 ở Vương quốc Phổ, ngay từ nhỏ C.Mác đã nhận được sự giáo
dục đầy tính nhân đạo của cha mình - ông Hen-rích Mác - một nhà luật học
có tài, am hiểu sâu sắc tư tưởng của các nhà khai sáng Pháp. Ảnh hưởng
của gia đình, của các mối quan hệ tiến bộ trong xã hội đã sớm hình thành
ở C.Mác hướng đi của cuộc đời.
Năm
17 tuổi, khi còn là học sinh trung học, trong luận văn tốt nghiệp về
"Suy nghĩ của một thanh niên khi chọn nghề", C.Mác đã viết: "Lịch sử gọi
những con người tự làm cho mình trở nên cao quý bằng việc cống hiến cho
sự nghiệp chung, là những con người vĩ đại; kinh nghiệm ca ngợi con
người đem lại hạnh phúc cho hầu hết mọi người, là con người hạnh phúc
nhất"(1). Ngay từ thời gian này, C.Mác đã bộc lộ khát vọng muốn phục vụ
nhân loại, muốn có cuộc sống sao cho xứng đáng với cuộc sống của một con
người chân chính nhất. Theo Ông, "Nếu một người chỉ lao động vì mình
thôi, thì người đó có thể trở nên một nhà bác học nổi tiếng, một nhà
thông thái lớn, một nhà thơ tuyệt vời, nhưng người đó không bao giờ có
thể trở thành một con người thật sự hoàn thiện..."(2); còn, "nếu chúng
ta chọn được một nghề mà chúng ta có thể cống hiến nhiều nhất cho nhân
loại, thì chúng ta sẽ không cảm thấy gánh nặng của nghề ấy"(3); hạnh
phúc của chúng ta sẽ được nhân lên gấp bội vì nó không chỉ là của chúng
ta nữa mà nó thuộc về hàng triệu người...
Là
người luôn quan tâm đến con cái, ông Hen-rích Mác sớm nhận thấy năng
lực và hướng đi của con mình. Ông đã linh tính, C.Mác không chỉ sống một
cuộc sống dài cho hạnh phúc của cá nhân và của gia đình, mà "còn cho
hạnh phúc của nhân loại" (4).
Thực
vậy, cuộc đời của C.Mác đầy gian khổ nhưng những phát minh của Ông đã
đem lại bước phát triển nhảy vọt đối với nhận thức về lịch sử nhân loại,
về xã hội và đã đem lại những thành tựu lớn lao trong sự nghiệp giải
phóng con người. Ðể rồi, sự ra đi của C.Mác "là một tổn thất không sao
lường hết được đối với giai cấp vô sản..., đối với khoa học lịch sử"
(5).
Sự nghiệp
chân chính của C.Mác là đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân làm thuê
khỏi xiềng xích của hệ thống sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại. Từ
trước tới nay chưa có một chiến sĩ nào đấu tranh tích cực hơn C.Mác. Nhờ
những hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn của C.Mác mà chúng ta có
được như ngày hôm nay, có được tất cả những gì giờ đây phong trào hiện
đại đã đạt được(6).
Khái
quát những thành tựu vĩ đại mà C.Mác cống hiến cho giai cấp vô sản và
nhân loại, người suốt đời cộng tác với Ông, Ph.Ăng-ghen đánh giá: "Giống
như Ðác-uyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã
tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người... Nhưng không phải
chỉ có thế thôi. Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức
đó đẻ ra. Với việc phát hiện ra giá trị thặng dư trong lĩnh vực này thì
lập tức một ánh sáng đã hiện ra trong khi tất cả các công trình nghiên
cứu trước đây của các nhà kinh tế học tư sản cũng như của các nhà phê
bình xã hội chủ nghĩa vẫn đều mò mẫm trong bóng tối" (7). "Người nào mà
có được một phát minh như vậy thì hẳn là đã hạnh phúc lắm rồi! Nhưng,
Mác đã có những phát minh khác hẳn nhau trong mỗi lĩnh vực mà Ông đã
nghiên cứu... Bằng cách này hay cách khác, tham gia vào việc lật đổ xã
hội tư bản và các thiết chế nhà nước do nó dựng nên, tham gia vào sự
nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại mà Ông là người đầu tiên đã
đem lại cho giai cấp đó một ý thức về địa vị của bản thân mình và yêu
cầu của mình, ý thức về điều kiện để giải phóng mình - đó thật sự là sứ
mệnh thiết thân của Ông"(8).
Trọn
đời vì lý tưởng giải phóng giai cấp, giải phóng loài người thoát khỏi
mọi hình thức áp bức, bóc lột, bất công và mọi sự tha hóa, C.Mác đã để
lại cho nhân loại một di sản tư tưởng đồ sộ, sâu sắc. Song đúng như
Ph.Ăng-ghen đánh giá, trong những thành tựu của C.Mác có ba thành tựu có
thể coi là ba phát minh vĩ đại mà Ông để lại cho chúng ta và thế hệ mai
sau là: Tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người; tìm ra quy
luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại
và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra - quy luật giá trị thặng
dư; tìm ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Thứ
nhất, tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người. Ðây là một
trong hai phát minh vạch thời đại của C.Mác như Ph.Ăng-ghen tổng kết.
Ðể
đi tới phát minh vĩ đại này, C.Mác đã tiến hành phê phán và cải tạo căn
bản phép biện chứng duy tâm của Hê-ghen, chủ nghĩa duy vật siêu hình
của Phoi-ơ-bắc; đồng thời kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng
của nhân loại trước đó, xây dựng nên một triết học mới - triết học duy
vật biện chứng, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất
với nhau một cách hữu cơ, đồng thời khẳng định triết học phải lấy sinh
khí của mình từ thực tiễn, không chỉ giải thích thế giới mà còn phải cải
tạo thế giới.
Trên
quan điểm đó, khi nghiên cứu lịch sử xã hội, C.Mác xuất phát từ con
người hiện thực vì theo Ông, xã hội muốn tồn tại và phát triển thì trước
hết phải có con người sống. Song, con người muốn sống phải có lương
thực, thực phẩm và những tư liệu sinh hoạt khác. Những thứ đó giới tự
nhiên không ban được cho con người mà con người phải lao động sản xuất
để tạo ra nó. Sản xuất vật chất là yếu tố quyết định sự sinh tồn và phát
triển của con người, của xã hội; là hành vi lịch sử đầu tiên, là điều
kiện cơ bản của mọi lịch sử. Do đó để hiểu được con người, C.Mác đã đi
sâu nghiên cứu quá trình sản xuất vật chất của con người trong xã hội,
nghiên cứu biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó
đi tới nhận thức về mặt xã hội của bản chất con người, trong tính hiện
thực của nó, "bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội" (9).
C.Mác khẳng định, lịch sử chính là lịch sử hoạt động của những con người
hiện thực, nó không phải là thần bí, tự phát mà hoàn toàn có thể nhận
thức được. Lịch sử vận động một cách có quy luật, dựa trên những tiền đề
hiện thực, đó là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Bằng cách đó, C.Mác
đã thực hiện một cuộc cách mạng triệt để trong triết học, sáng lập ra
chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của xã hội loài
người.
Với việc
sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của
lịch sử loài người, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ
quan niệm về lịch sử loài người. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại,
những quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của xã hội đã
được C.Mác tìm ra là: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; cơ sở kinh tế xã
hội quyết định kiến trúc thượng tầng của xã hội; tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội chứ không phải ngược lại ý thức xã hội quyết định tồn
tại xã hội; sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội như
là một quá trình lịch sử - tự nhiên,…
V.I.Lê-nin
đánh giá: "Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất
của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt
chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay
trong các quan niệm về lịch sử và chính trị; lý luận đó chỉ cho ta thấy
rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức
đời sống xã hội này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một hình thức
tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn" (10).
Thứ
hai, tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra - quy luật
giá trị thặng dư
Quan
niệm sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch
sử tự nhiên nên khi nghiên cứu về phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, C.Mác cho rằng "quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng là một
hình thái lịch sử nhất định của quá trình sản xuất xã hội" (11). Thực
chất, đó là quá trình "sản xuất ra giá trị thặng dư đó - là mục đích
trực tiếp và là động cơ quyết định của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa"
(12); nó phản ánh quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản –
quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê và nó cũng là cơ sở của sự tồn
tại, phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chính điều này, theo C.Mác đã dẫn
đến sự tha hóa của lao động, tha hóa con người(13).
Với
việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư trong nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa, C.Mác đã làm nên cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế chính
trị học. Ông không chỉ phát hiện ra quy luật kinh tế cơ bản của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa – quy luật quyết định các mặt chủ yếu,
các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư bản, mà qua đó còn vạch
trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, bác bỏ những luận điệu về
"tự nguyện", "công bằng" trong quan hệ giữa nhà tư bản và người công
nhân; chỉ rõ những mâu thuẫn không thể giải quyết được của xã hội tư bản
- mâu thuẫn giữa tính xã hội ngày càng phát triển của lực lượng sản
xuất với tính tư nhân trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giữa giai
cấp công nhân với những nhà tư bản, giữa những nhà tư bản với nhau
trong quá trình cạnh tranh để đạt giá trị thăng dư tối đa, v.v.
Ngày
nay, mặc dù chủ nghĩa tư bản có những hình thức biểu hiện mới khác với
hồi cuối thế kỷ XIX, song quy luật giá trị thặng dư do C.Mác tìm ra vẫn
là cơ sở lý luận khoa học để chúng ta nhận thức sâu sắc, toàn diện về
những phương thức mà các nhà tư bản đã và đang sử dụng để bóc lột công
nhân trong nền kinh tế tri thức với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học,
kỹ thuật, công nghệ và quá trình toàn cầu hóa hiện nay.
Thứ ba, tìm ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản
Trước
C.Mác, nhiều nhà tư tưởng đã đề cập đến giai cấp vô sản, song, do điều
kiện về lịch sử "những người đó lại không nhận thấy, ở phía giai cấp vô
sản, một tính chủ động lịch sử nào, một cuộc vận động chính trị nào của
bản thân giai cấp vô sản cả" (14), "họ càng không thấy những điều kiện
vật chất cần cho sự giải phóng của giai cấp vô sản" (15). "Ðối với họ,
giai cấp vô sản chỉ tồn tại với tư cách là giai cấp đau khổ nhất" (16).
Trên
cơ sở phân tích khách quan, khoa học những điều kiện kinh tế của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như những điều kiện chính trị, xã hội đã
tạo nên các quan hệ giai cấp trong xã hội tư bản, C.Mác đã làm sáng tỏ
sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản - giai cấp đại diện cho lực lượng
sản xuất tiên tiến; giai cấp có đủ điều kiện khách quan quy định sứ mệnh
của mình, có đủ năng lực, phẩm chất để thực hiện sứ mệnh giải phóng
chính bản thân mình tiến tới giải phóng toàn thể nhân loại. Khẩu hiệu
"Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!" là kết quả của cả một quá trình
nghiên cứu và hình thành luận thuyết của C.Mác, nó phản ánh một cách đầy
đủ nhất nguyên lý về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản mà
Ông phát hiện ra.
V.I.Lê-nin
đánh giá: "Ðiểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng
rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội
xã hội chủ nghĩa" (17). Trải qua thử thách của thời gian và kiểm nghiệm
của thực tiễn, cho đến nay, phát minh vĩ đại của C.Mác về sứ mệnh lịch
sử của giai cấp vô sản gắn liền với vai trò của Ðảng Cộng sản còn nguyên
giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, là vũ khí tinh thần của
giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng với chủ nghĩa tư bản,
với những điều kiện xã hội hạ thấp, làm hư hỏng con người, là phương
tiện mạnh mẽ để con người cải biến hiện thực vì lợi ích của con người.
Cùng
với những thành tựu, phát minh vĩ đại, suốt cuộc đời nghiên cứu khoa
học và hoạt động cách mạng, C.Mác cùng Ph.Ăng-ghen xây dựng nên chủ
nghĩa Mác, một học thuyết, một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng,
bao gồm triết học Mác-xít, kinh tế chính trị học Mác-xít và chủ nghĩa xã
hội khoa học. Ðây là những cơ sở lý luận khoa học, vũ khí tư tưởng sắc
bén trong cuộc đấu tranh tự giải phóng và giải phóng nhân loại của giai
cấp vô sản trên toàn thế giới. Cho đến nay chưa có học thuyết nào thể
hiện một cách khoa học, chặt chẽ, rõ ràng về con đường giải phóng giai
cấp, giải phóng con người như học thuyết Mác.
Học
thuyết Mác, chủ nghĩa Mác được V.I.Lê-nin kế thừa, bổ sung và phát
triển, trở thành chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Những nguyên lý nền tảng của
chủ nghĩa Mác được V.I.Lê-nin vận dụng sáng tạo để giải quyết những vấn
đề của cách mạng vô sản thế giới trong tình hình mới đã đem lại sự thắng
lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và một hệ thống xã hội chủ
nghĩa ra đời, đóng vai trò to lớn trong tiến trình phát triển của thế
giới hiện đại và của xã hội loài người. Ðiều đó càng làm cho giá trị của
học thuyết Mác, chủ nghĩa Mác cũng như công lao, phát kiến của C.Mác
thêm tỏa sáng.
Thời
gian càng lùi xa, nhìn lại cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của C.Mác
chúng ta càng thấy rõ, Ông không chỉ là nhà tư tưởng vĩ đại, đã giải đáp
được các vấn đề mà loài người tiên tiến nêu lên, mà còn là vị lãnh tụ
thiên tài, một người bạn, một người đồng chí chân thành, chung thủy, một
mẫu mực về đạo đức cách mạng hết sức cao đẹp, luôn lấy đấu tranh cho tự
do và hạnh phúc của nhân loại làm lẽ sống, lý tưởng và sứ mệnh của cả
cuộc đời.
Ðối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lê-nin có ý nghĩa rất sâu sắc.
Từ
nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Việt Nam là một nước thuộc địa của
thực dân Pháp. Với truyền thống yêu nước nồng nàn, quyết không cam chịu
nỗi tủi nhục của người dân mất nước, nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong
trào yêu nước và nhiều xu hướng giải phóng dân tộc đã diễn ra, nhưng tất
cả đều thất bại hoặc không thu được thắng lợi cuối cùng, bởi thiếu một
đường lối cách mạng đúng đắn để tập hợp, phát huy sức mạnh toàn dân tộc.
Giữa lúc đó, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến được với chủ nghĩa Mác
- Lê-nin và Người đã tìm thấy ở đó những nội dung cơ bản của tư tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chấm dứt sự khủng hoảng
về đường lối cứu nước của dân tộc đã tồn tại trong nhiều thập kỷ.
Kết
hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với chủ nghĩa yêu nước, phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập nên
Ðảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Từ khi
thành lập năm 1930 đến nay, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân
Việt Nam tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua
muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vĩ đại và đang
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những thắng lợi vĩ đại mà Ðảng Cộng
sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam giành được trong 88 năm qua, đặc biệt
là trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc
và hơn 30 năm đổi mới đất nước là minh chứng sinh động, khẳng định sự
đúng đắn, giá trị, ý nghĩa to lớn và sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, mà C.Mác là một trong những lãnh tụ đầu tiên sáng lập.
Hơn
một thế kỷ qua, từ khi hình thành, xác lập đến nay, chủ nghĩa Mác -
Lê-nin đã trải qua nhiều giai đoạn thử thách, nhiều lần bị các trào lưu
tư tưởng đối lập phê phán, nhất là từ khi mô hình chủ nghĩa xã hội hiện
thực ở Liên Xô và các nước Ðông Âu sụp đổ, các hoạt động bài xích, xuyên
tạc, phủ định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bác bỏ vai trò lãnh đạo của Ðảng
Cộng sản, bác bỏ con đường xã hội chủ nghĩa cũng như công lao, cống hiến
của C.Mác càng gia tăng và được thực hiện dưới nhiều chiêu bài tinh vi,
xảo quyệt. Nhưng với bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn sâu sắc,
chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn khẳng định được giá trị to lớn, sức sống bền
vững và ý nghĩa thời đại. Lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học luôn lôi
cuốn hàng triệu triệu trái tim, khối óc của nhân dân yêu chuộng hòa bình
trên thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, giành hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Những nhân tố của chủ nghĩa xã
hội vẫn đang nảy sinh và phát triển ngay trong lòng nhiều nước tư bản.
Dù tình hình thế giới có xảy ra nhiều biến cố, thăng trầm, nhưng vẫn
không đi ngoài những quy luật phổ biến đã được C.Mác tổng kết. Một khi
xã hội còn giai cấp, đối kháng giai cấp thì chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn
là kim chỉ nam, định hướng cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng
con người.
Thấm
nhuần sâu sắc nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin: "Sự sụp đổ của giai
cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau"
(18), Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; "Ðảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động,..."(19). Trong
bất cứ hoàn cảnh nào, Ðảng luôn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và dân tộc Việt Nam, với sự nghiệp cách mạng của các dân tộc bị áp
bức và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.
Song,
từ bài học thành công, thất bại của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa ở Ðông Âu, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã tích cực đổi mới tư duy lý
luận, nhận thức sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hệ thống mở, vì vậy
cần phải chú trọng vận dụng sáng tạo và không ngừng bổ sung, phát triển
cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế thời đại, như C.Mác và
Ph.Ăng-ghen thường nhắc nhở: Bất cứ ở đâu, bất cứ vào lúc nào thì việc
vận dụng tư tưởng trong học thuyết của các Ông cũng phải căn cứ vào bối
cảnh cụ thể của xã hội đương thời(20). Tổng kết 30 năm đổi mới đất nước
(1986 - 2016), bài học đầu tiên trong 5 bài học mà Ðảng Cộng sản Việt
Nam rút ra là: "Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng
tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam"(21).
Nghị quyết Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Ðảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định: "kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,... đẩy mạnh tuyên
truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,... Tiếp
tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện
hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát
triển đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước"(22). Ðó chính là tinh thần cách mạng, khoa học của Ðảng Cộng sản
Việt Nam.
Trân
trọng giá trị và ý nghĩa lớn lao của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam, cùng với giai cấp công nhân và nhân loại tiến
bộ trên toàn thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam, những người cộng
sản Việt Nam tự hào và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với C.Mác, nhà tư
tưởng vĩ đại, vị lãnh tụ thiên tài của mình - Người đã đặt nền móng và
định hướng phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tư tưởng của C.Mác đã trở
thành nội dung cốt lõi, là thế giới quan khoa học, phương pháp luận khoa
học trong nhận thức và cải tạo thế giới. Di sản của Ông đã và đang định
hướng cho con người nhận thức và giải quyết những vấn đề hết sức phức
tạp trong cuộc sống đa dạng, đầy biến động của thế giới hiện nay.
Kỷ
niệm 200 năm Ngày sinh C.Mác là dịp để chúng ta bày tỏ lòng ngưỡng mộ,
tôn vinh và tri ân một con người đã cống hiến cả cuộc đời cho một xã hội
mà ở đó "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người". Ðây cũng là dịp để một lần nữa chúng
ta nhìn nhận lại giá trị những di sản tư tưởng của Ông, phương pháp vận
dụng những di sản ấy vào hoạt động của mỗi đảng, mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc trong sự phân cực, đa phương, đa chiều, đầy biến động của thế giới
hiện nay; đồng thời đấu tranh, phản bác những luận điệu, quan điểm sai
trái, phủ định giá trị, sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và
công lao, cống hiến vĩ đại của C.Mác đối với nhân loại, để cùng nhau xây
dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp.
--------------------
(1)
C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, bản tiếng Ðức, t.1 bổ sung, tr.594//
Trích lại từ: H.Ghem-cốp: Cuộc đời của chúng tôi - Tiểu sử của C.Mác và
Ph. Ăng-ghen, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.8.
(2)
Viện Mác - Lê-nin thuộc Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Liên Xô:
Các Mác - Tiểu sử, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975, t.1, tr.37.
(3)
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, bản tiếng Ðức, t.1 bổ sung, tr.594//
Trích lại từ: H.Ghem-cốp: Cuộc đời của chúng tôi - Tiểu sử của C.Mác và
Ph.Ăng-ghen, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.8.
(4)
Viện Mác - Lê-nin thuộc Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Liên Xô:
Các Mác - Tiểu sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975, t.1, tr.38.
(5) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.19, tr.499.
(6) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.19, tr.497- 499; 1998, t.35, tr.606.
(7) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.19, tr.499 - 500.
(8) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.19, tr.500 - 501.
(9) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.3, tr.11.
(10) V.I.Lê-nin, Sđd, t. 23, tr.53.
(11) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.25, phần II, tr.542.
(12) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.25, phần I, tr.370.
(13) Xem: C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.42, tr.131 - 132.
(14) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.4, tr.640.
(15) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.4, tr.640.
(16) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.4, tr.640.
(17) V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, t.23, tr.1.
(18) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.4, tr.613.
(19) Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.88.
(20) Xem: C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.18, tr.128.
(21) Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Ðảng, Hà Nội 2016, tr.69.
(22)
Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phòng Trung ương Ðảng, Hà Nội 2016, tr.199 - 201.
VÕ VĂN THƯỞNG
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư T.Ư Ðảng, Trưởng Ban Tuyên giáo T.Ư