Sinh thời, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vì theo Người: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”(1) . Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tạo ra những công dân tốt, những cán bộ tốt cho nước nhà.
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Người đặc biệt chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ. Đây là một nét nổi bật, xuyên suốt, trở thành cơ sở lý luận cho Đảng và Nhà nước vận dụng và hoạch định chủ trương, chính sách phát triển phụ nữ nói chung, cán bộ nữ nói riêng.
Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi còn bôn ba ở nước ngoài tìm đường cứu nước cho dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận đúng đắn vai trò to lớn của lực lượng phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng. Xác định đúng vị trí, vai trò của phụ nữ là một trong những nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã đặt vấn để giải phóng phụ nữ trong sự thống nhất với sự nghiệp giải phóng dân tộc, xã hội và con người qua các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là sự nghiệp giải phóng chân chính, toàn điện và triệt để nhất, nhưng mới chỉ là bước đi đầu tiên có ý nghĩa quyết định mở đường cho quá trình giành quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ. Theo Người, giành quyền bình đẳng, chống sự phân biệt đối xử với phụ nữ không phải ai làm cho họ mà chính họ phải vươn lên, phải đấu tranh tự cường tự lập để giữ lấy quyền lợi của mình..
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng phẩm chất và năng lực của người cán bộ không thể bỗng dưng mà có, mà phải qua huấn luyện, rèn luyện mà nên. Người viết: “... huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”(2). Đảng phải hết sức quan tâm tới việc huấn luyện, rèn luyện cán bộ nữ. Việc huấn luyện, rèn luyện sẽ giúp chị em nâng cao được trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực công tác. Người chỉ ra những nội dung và phương pháp cụ thể của việc học tập, huấn luyện; Huấn luyện về chính trị giúp chị em nắm được các vấn đề về thời sự và chính sách của Đảng, Nhà nước; Huấn luyện về văn hóa giúp chị em nắm được những vấn đề cơ bản về lịch sử, địa lý, khoa học tự nhiên, xã hội, chính trị, nghĩa vụ và quyền lợi công dân; Huấn luyện về lý luận, mục đích là để áp dụng các công việc, lý luận phải đi liền với thực tế, học đi đôi với hành; Huấn luyện về nghề nghiệp giúp chị em thành thạo trong công việc chuyên môn. Mục đích cuối cùng của huấn luyện cán bộ nữ là đào tạo ra một đội ngũ cán bộ nữ vừa hồng vừa chuyên, có gan phụ trách, có gan làm việc, giúp chị em thực sự trở thành người cán bộ có trình độ, đáp ứng với nhiệm vụ của Đảng giao cho.
Rất quan tâm tới đội ngũ cán bộ nữ, nên khi bàn đến công tác cán bộ hay khi dự hội nghị ở các cấp, các ngành, đi thăm các cơ sở sản xuất,... bao giờ Người cũng hỏi số lượng chị em tham gia hội nghị, số chị em công tác quản lý, số chị em đạt thành tích khá. Người cũng nghiêm khắc phê bình một số cán bộ lãnh đạo các cấp còn đánh giá không đúng khả năng của phụ nữ, hay thành kiến, hẹp hòi, như vậy là rất sai' và nhắc nhở: “Các cấp lãnh đạo phải quan tâm hơn nữa về công tác phụ nữ và chú ý hơn nữa đào tạo cán bộ, phát triển đảng viên và đoàn viên phụ nữ”(3) .
Người căn dặn, các cấp, các ngành phải đặc biệt chú ý cất nhắc cán bộ nữ vào các cơ quan lãnh đạo, nhất là vào các ngành thích hợp với phụ nữ. Việc cất nhắc, đề bạt cán bộ nữ phải thông qua hoạt động thực tiễn để lựa chọn những cán bộ tích cực, có năng lực, chứ không phải thích ai thì đề bạt người đó. Phải tuyển chọn những phụ nữ ưu tú qua các phong trào, trong công nhân, trí thức... tuyển chọn những chị em đã qua rèn luyện thử thách. Khi cất nhắc cán bộ phải xem xét rõ ràng, chẳng những xem xét công tác của họ mà còn phải xem xét cách sinh hoạt của họ; chẳng những xem xét cách nói, cách viết mà còn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không; chẳng những xem xét họ đối với ta thế nào mà còn phải xem xét họ đối với người khác thế nào. Người nói cất nhắc cán bộ không nên làm như “giã gạo”, chẳng những phải xem xét rõ ràng khi cất nhắc, mà sau khí cất nhắc phải giúp đỡ họ, khuyên giúp họ, vun trồng lòng tự tin, tự trọng của họ. Người kết luận: Biết rõ ràng cán bộ mới có thể cất nhắc cán bộ một cách đúng mực.
Để có một đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng với yêu cầu phát triển của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các cấp, các ngành phải có kế hoạch đào tạo cán bộ nữ, có kế hoạch đào tạo thì có cơ sở vững chắc mà đề bạt cán bộ, “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo”(4).
Phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ có triển vọng, không nên coi thường cán bộ trẻ, phải mạnh dạn giao việc cho cán bộ trẻ. Phát hiện và chủ động tạo nguồn cán bộ được rèn luyện trong phong trào quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, để đề bạt, cất nhắc. Phải chú ý kết hợp hài hòa giữa cán bộ trẻ và cán bộ già, để phát huy hết khả năng và trí tuệ của cả hai thế hệ. Việc sử dụng, sắp xếp, bố trí cán bộ nữ cũng cần chú ý đến những đặc điểm về giới, bố trí cho chị em vào những ngành nghề thích hợp, để chị em có thể phát huy tối đa khả năng và sở trường của mình. Cần tránh bố trí cho chị em những công tác lưu động quá nhiều, những việc làm quá sức, hay những công việc tiếp xúc với các chất độc hại, ảnh hưởng tới sức khỏe của chị em. Phải có chính sách ưu tiên và đãi ngộ thích đáng đối với cán bộ nữ hoạt động lâu năm, những cán bộ công tác ở các vùng sâu, vùng xa.
Những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ đã được Đảng ta quán triệt và thực hiện từ trước đến nay, thể hiện qua các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng trong công tác vận động phụ nữ, nhằm phát huy vai trò to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng như: Nghị quyết số 04-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới” (12/7/1993), mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là thiết thực cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ, thực hiện tốt nam nữ bình đẳng. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức khoẻ, có kiến thức, năng động, sáng tạo, biết làm giàu chính đáng, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng, có lòng nhân hậu.
Tiếp đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 37-CT/TW về “Một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tinh hình mới” (16/5/1994), trong đó Đảng ta xác định rõ; “Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ. Chống những biểu hiện lệch lạc, coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp hòi trong đánh giá, đề bạt cán bộ nữ”(5).
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX nêu rõ: “Thiết thực chăm lo sự bình đẳng về giới, sự tiến bộ của phụ nữ...” (6). Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ; chăm sóc sức khỏe bà mẹ, tạo điều kiện cho chị em kết hợp nghĩa vụ công dân với chức năng làm mẹ và xây dựng hạnh phúc gia đình.
Đại hội lần thứ X của Đảng (2006) tiếp tục khẳng định: “Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ, người thày đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp” Đặc biệt, ngày 27/4/2007, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 11-NQ/TW về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nuớc” là Nghị quyết được ban hành sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW về công tác cán bộ nữ và trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế thế giới.
Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị “Về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng” đã nhấn mạnh về cơ cấu cán bộ nữ: “Phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ... Cấp ủy các cấp, nhất là người đứng đầu phải chủ động và có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo việc rà soát, đánh giá để đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số vào các chức danh có cơ cấu tham gia cấp ủy khóa mới; đồng thời, có giải pháp hiệu quả chuẩn bị nguồn cán bộ cả trước mắt và lâu dài”.
Đặc biệt, Đại hội Đảng lần thứ XIII đã chỉ rõ: “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kĩ năng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liện quan đến phụ nữ, trẻ em, bình đẳng giới. Kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em”(7).
Những nội dung cơ bản về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tính nhân văn, nhân ái, thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới, góp phần to lớn cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ, giải phóng xã hội ở nước ta hiện nay. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, đến nay công tác cán bộ nữ đã được đổi mới từng bước. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển đội ngũ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, chính những đóng góp to lớn của phụ nữ Việt Nam đang góp phần khẳng định “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế” như bây giờ. Thời gian tới, trước yêu cầu, nhiệm vụ chính trị ngày càng nặng nề, khó khăn và phức tạp hơn, việc xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ nữ nói riêng đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ, góp phần thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, càng đặt ra cấp thiết đòi hỏi sự hỗ trợ tích cực của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, cùng với những nỗ lực của bản thân sẽ có cơ hội đóng góp ngày càng nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển đất nước, khẳng định hình ảnh, phẩm chất đạo đức cao quý “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”./.
Trần Thị Huyền – Phó Trưởng phòng TC,HC-TT,TL
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, 2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tr.309.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 14, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tr.264.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tr.617.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 53, tr.364.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.163.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr 169.