Nguyễn Văn Linh tên thật là Nguyễn Văn Cúc (Mười Cúc), sinh ngày 1/7/1915 (19/5 Ất Mão) tại làng Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ.
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (1915-1998)
Thời
niên thiếu, ông Cúc phải chịu đựng biết bao điều bất hạnh: 5 tuổi đã mồ
côi mẹ, 11 tuổi, thân phụ qua đời. Từ đó Nguyễn Văn Cúc sống nhờ vào sự
đùm bọc của người chú ruột là Nguyễn Văn Hùng - một người có học thức,
làm ở Sở dây thép Hải Phòng. Ông Hùng tuy đông con vẫn giành sự ưu ái
chăm sóc với người cháu mồ côi cha mẹ nhưng giàu nghị lực của mình. Sống
trong cảnh nước mất, nhà tan, ông Cúc đã sớm có tinh thần yêu nước và
tham gia vào các tổ chức cách mạng của Đảng. Quá trình hoạt động của
Nguyễn Văn Linh từ thời trẻ đến khi giữ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Việt Nam, đến nay người biên soạn chưa có điều kiện tìm hiểu đầy đủ.
Dưới đây là những nét tiêu biểu trong đời hoạt động của ông được công bố
nhân ngày đồng chí giữ chức Tổng Bí thư (Báo Nhân dân ngày 19/12/1986).
Năm 1929 ông tham gia tổ chức Học sinh Đoàn do Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội lãnh đạo.
Ngày
01/5/1930, tham gia rải truyền đơn chống thực dân Pháp, bị giặc bắt,
kết án tù chung thân, đày ra Côn Đảo. Ông là một trong những tù nhân
trong án chính trị trẻ nhất lúc bấy giờ.
Năm 1935, Mặt trận Bình
dân nắm chính quyền ở Pháp, thực hiện mở rộng tự do, dân chủ. Thực dân
Pháp ở Đông Dương trả tự do cho một số tù chính trị, trong đó có Nguyễn
Văn Cúc. Cũng trong năm đó ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương
rồi được cử về Hải Phòng hoạt động. Tại đây, ông đã cùng các đồng chí
xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng trung kiên và tổ chức quần chúng tin
cậy, thành lập Đảng bộ lâm thời Hải Phòng.
Năm 1936, Nguyễn Văn
Linh được Đảng điều vào công tác ở thành phố Sài Gòn, tham gia Ban chấp
hành Đảng bộ thành phố. Cuối năm 1939, chiến tranh thế giới bùng nổ, do
chính sách khủng bố trắng trợn của thực dân Pháp, nhiều cơ sở cách mạng
trong cả nước bị khủng bố và tan rã, ông được phân công ra Trung kỳ bắt
liên lạc với cơ sở Đảng còn lại ở các tỉnh để lập lại Xứ ủy.
Đầu năm 1941, ông bị địch bắt, đưa vào Sài Gòn, xử 5 năm tù và đày ra Côn Đảo lần thứ hai.
Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Nguyễn Văn Linh được trở về
Nam Bộ, trực tiếp tham gia lãnh đạo cuộc kháng chiến ngay trong lòng
thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn với cương vị Bí thư Thành ủy, Bí thư Đặc khu
ủy. Từ năm 1949, ông Tham gia Ban Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ.
Từ năm 1957 đến năm 1960, ông phụ trách Quyền Bí thư Xứ ủy Nam Bộ.
Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) ông được bầu vào Ban Chấp hành
Trung ương Đảng. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền
Nam, trên cương vị Phó Bí thư và Bí thư, ông đã cùng Trung ương Cục miền
Nam lãnh đạo quân và dân miền Nam làm cuộc kháng chiến thần thánh chống
Mỹ cứu nước từ những năm tháng đen tối đến mùa xuân lịch sử toàn thắng
(năm 1975).
Tổ quốc Việt Nam được thống nhất, ông được phân công
trở lại làm Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IV của Đảng (1976) ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung
ương Đảng và được cử vào Bộ Chính trị, Ban bí thư Trung ương Đảng, lần
lượt đảm nhiệm các chức vụ: Trưởng Ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa của
Trung ương, Trưởng ban Dân vận và Mặt trận Trung ương, Chủ tịch Tổng
Công đoàn Việt Nam. Từ cuối năm 1981 đến giữa năm 1986, ông được phân
công làm Bí thư Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ V của Đảng (1982) ông tiếp tục được bầu vào Ban Chấp
hành Trung ương. Sau đó, ông được cử vào Bộ Chính trị tham gia Ban Bí
thư, thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI của Đảng (1986) bầu ông làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Nguyễn Văn Linh là một trong những
nhà lãnh đạo của Đảng khởi xướng đường lối đổi mới, xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, chuyển sang kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Năm 1987 đồng chí đã phát biểu và viết nhiều bài quan
trọng làm sáng tỏ quan điểm đổi mới, đặc biệt là những vấn đề ông nêu ra
dưới tiêu đề “Những việc cần làm ngay” mang bút danh N.V.L đã tạo luồng
sinh khí mới trong xã hội: Dân chủ, công khai, nói thẳng, nói thật có
tác dụng thúc đẩy các cấp, các ngành, các tổ chức giải quyết kịp thời
những vấn đề bức xúc trong thực tế cuộc sống hàng ngày, đấu tranh chống
tiêu cực tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nếp nghĩ, cánh làm của mỗi
người. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) ông thôi giữ chức
Tổng Bí thư và làm Cố vấn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ông qua đời tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 27 năm 4 năm 1998.
Trong
quá trình hoạt động cách mạng, ông Nguyễn Văn Linh đã từng trải biết
bao gian khổ về vật chất và tinh thần, đã bình tĩnh trước mọi hiểm nguy
và biến cố, có niềm tin vững chắc vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, có
tầm nhìn chiếc lược và tình thương yêu đồng bào, đồng chí sâu sắc nên ở
bất cứ cương vị nào, ông cũng mang hết sức lực cống hiến cho Đảng, cho
dân.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Nguyễn Văn Linh đã có những
đóng góp quan trọng và có hiệu quả vào việc hoạch định đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Là tổng Bí thư của Đảng trong nhiệm kì đầu
tiên của thời kì đổi mới, ông đã cùng tập thể chủ động sáng tạo, chèo
lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua những bước hiểm nghèo trong
thời kì đất nước ta đang lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc,
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Ông đã kiên trì
thực hiện đổi mới có nguyên tắc – đổi mới nhưng luôn giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “Dân biết, dân
làm, dân bàn, dân kiểm tra”.
Trong cuộc sống hàng ngày, Nguyễn Văn
Linh luôn thẳng thắn, trung thực, sâu sát với thực tế. Ông là một mẫu
mực về sự giản dị, liêm khiết, dân chủ và kiên quyết chống tham ô, lãng
phí, phô trương hình thức. Ông rất được đồng bào, đồng chí tin yêu, kính
phục.
Do có công lao và thành tích đối với cách mạng, ông được
Đảng và Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huy hiệu 60 năm
tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác. Vì công lao xây đắp
tình hữu nghị, ông được Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào tặng
thưởng Huân chương Vàng quốc gia, Nhà nước Cu Ba tặng thưởng Huân chương
Hô-xê Mac-ti, Nhà nước Campuchia tặng thưởng Huân chương Ăng-co.
Ông mất ngày 27/4/1998 tại thành phố Hồ Chí Minh, thọ 84 tuổi.
Là
một cán bộ ưu tú của Đảng có những đóng góp to lớn trong công cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc và trong sự nghiệp đổi mới đất nước, năm
2003, tỉnh Hưng Yên đã cho xây dựng Nhà tưởng niệm Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh tại quê hương ông: Thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ.
Công trình được khánh thành và đưa vào sử dụng ngày 17/9/2004.
Nguồn: hungyentv.vn