Suốt cuộc đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, ai cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc.
Bởi vậy, trước lúc đi xa Người không chỉ để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân một nhân cách lớn, một tư tưởng lớn, một sự nghiệp lớn mà Người còn để lại bản Di chúc lịch sử. Mặc dù Người viết rằng: “để lại mấy lời” và “chỉ nói tóm tắt vài việc thôi” nhưng Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử vô giá, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những dòng đầu tiên của bản Di chúc lịch sử được Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức đặt bút viết vào ngày 10/5/1965. Khi đó Người đã bước sang tuổi 75 - tuổi "xưa nay hiếm" như cách nói của nhà thơ Đỗ Phủ (đời Đường – Trung Quốc). Chọn một ngày đẹp trời trong dịp kỷ niệm ngày sinh của mình, khi sức khỏe còn rất tốt và trí tuệ minh mẫn, Người đã viết những lời căn dặn cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Từ ngày 10 đến 14/5/1965, mỗi ngày Người dành khoảng 1 tiếng để viết và hoàn thành bản Di chúc gồm 3 trang, do Người tự đánh máy, gồm cả phần đầu, phần giữa và phần cuối và Người ký tên vào đó. Bản Di chúc của Bác Hồ được viết trong 5 năm vào lúc Người mạnh khỏe, sáng suốt và minh mẫn. 5 năm ấy, Bác để lại có 10 trang viết nhưng trong 10 trang ấy chúng ta đọc lại có thể thấy rằng Bác không quên một ai và không quên một việc gì. Cho nên Di chúc chúng ta đều thống nhất đánh giá đây là một bản tổng kết thực tiễn, định hướng tương lai và là một cẩm nang cho Đảng ta trong quá trình tiếp tục tiến lên phía trước.
Những lời căn dặn và mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc vô cùng giản dị mà thiêng liêng, có ý nghĩa lịch sử và thời đại sâu sắc, đồng thời thấm đẫm tinh thần nhân văn cao cả. Đó là tư tưởng về xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh; Thực hiện chính sách xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, phát huy nguồn lực con người, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân; Chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; Kiên định mục tiêu đi lên xã hội chủ nghĩa và thực hiện công cuộc đổi mới. Đó cũng là vấn đề Người trăn trở trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Quán triệt tư tưởng của Người, vấn đề đoàn kết trong Đảng luôn được Đảng ta quan tâm, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
Đó là một bằng chứng mạnh mẽ khẳng định giá trị thực tiễn Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bằng chính tấm gương sáng của đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tình cảm giai cấp và tình đồng chí trong Đảng, coi đó là một nhân tố quan trọng để đoàn kết trong Đảng. Người yêu cầu, “Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nhân tố đạo đức khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Theo Người, Đảng cầm quyền là bước chuyển trọng đại trong sinh hoạt Đảng. Đảng cầm quyền có sứ mệnh lãnh đạo giai cấp và dân tộc xây dựng thành công xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Để hoàn thành sứ mạng đó, Đảng ta phải “là đạo đức, là văn minh”.
Một tư tưởng nổi bật trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng trọng dân, thân dân. Thực hiện di nguyện của Bác, Đảng đã đề ra và lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc đổi mới, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Thực hiện Di nguyên của Người, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm xác định: Bộ máy chính quyền 2 cấp phải gần dân, sát dân, phục vụ dân tốt hơn. Tổng Bí thư nhấn mạnh cả nước đang bước vào một thời khắc quan trọng, triển khai quyết liệt công tác sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả và bắt đầu thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp từ ngày 1-7-2025. Việc tinh gọn bộ máy, sắp xếp lại đơn vị hành chính không chỉ là giải pháp kỹ thuật mà là quyết định mang tính bước ngoặt trong lộ trình đổi mới hệ thống chính trị và quản trị quốc gia, hướng tới một nền hành chính tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, giảm chi phí để phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn. Bộ máy chính quyền 2 cấp phải thật sự tinh gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả, gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân và doanh nghiệp tốt hơn.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lời căn dặn cuối cùng của một Lãnh tụ thiên tài, một nhà cách mạng lỗi lạc có tầm nhìn xa, trông rộng. Ở đó, Người đã thể hiện cao độ tinh thần trách nhiệm đối với Đảng, với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với thế hệ trẻ, với các tầng lớp nhân dân ta và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nhưng bao trùm lên toàn bộ nội dung Di chúc là hai chữ “Đảng” và “Dân”. Đây cũng chính là mối quan tâm sâu sắc nhất trong suốt cuộc đời của Người. Đó là bằng chứng mạnh mẽ khẳng định giá trị lịch sử vô giá, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của một Văn kiện lịch sử.
Thực hiện Di chúc của Bác, Đảng ta và nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi vẻ vang: đánh cho Mỹ cút (1973), đánh cho ngụy nhào, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1975). Tuy nhiên, vẫn có những lúc do chưa quán triệt đầy đủ những lời căn dặn của Bác nên công cuộc xây dựng đất nước của chúng ta sau năm 1975 đã trải qua rất nhiều khó khăn. Tuy công cuộc Đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để, có bước đi và cách làm thích hợp của Đảng mở ra từ Đại hội VI đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao, nhưng cho đến nay vẫn còn những vấn đề cần phải được giải quyết.
Dự thảo Đại hội Đại biểu lần thứ XIV của Đảng đã chỉ ra, đó là: Tăng trưởng kinh tế vẫn dưới mức tiểm năng. Năng xuất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Năng lực, trình độ công nghệ còn yếu, thiếu những ngành công nghiệp nền tảng; Văn hóa, con người chưa thực sự trở thành nguồn lực, sức mạnh nội sinh và động lực mạnh mẽ của sự phát triển; Cơ hội tiêp cận và mức độ thụ hưởng thành quả phát triển văn hóa còn chênh lệch giữa các vùng, miền, tầng lớp nhân dân. Đầu tư cho cho văn hóa còn thấp và dàn trải; Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chưa đồng bộ, thiếu tính hệ thống, còn lúng túng; Công tác xây dựng Đảng vẫn còn những yếu kém, chậm được khắc phục... Đứng trước những vấn đề như vậy, đọc Di chúc chúng ta tiếp tục rút ra được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn từ những lời dạy thiết thực của Bác. Theo tôi cần tập trung vào một số vấn đề sau đây:
Một là, phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngang tầm nhiệm vụ, thực sự xem đây là nhiệm vụ then chốt.
Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 95 năm đã qua, cả hôm nay và mai sau. Vì vậy phải thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng vững mạnh. Đảng có mạnh cách mạng mới thành công. Thực hiện các Nghị quyết Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng là việc làm vừa cơ bản, cấp bách, vừa thường xuyên lâu dài, cần kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”; lấy “xây” làm nhiệm vụ cơ bản, chiến lược lâu dài, lấy “chống” làm nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, đột phá trên nguyên tắc giữ vững sự ổn định chính trị để phát triển đất nước. Vừa đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng vừa tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV của Đảng.
Hai là, phải có những định hướng quan trọng đưa đất nước bứt phá đi lên để Việt Nam nhanh chóng trở thành một nước công nghiệp phát triển bền vững, nhân văn. Kinh tế tăng trưởng phải luôn gắn liền với việc thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm cho mọi thành phần trong xã hội đều được phát huy khả năng, được hưởng thụ các thành quả lao động của mình, cũng như sự quan tâm của cả xã hội đối với những đối tượng chính sách. Bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân và chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội. Trên cơ sở không ngừng nâng cao dân trí, chăm lo dân sinh, phát huy dân chủ để kết nối quyền và năng lực làm chủ của nhân dân ngày một tốt hơn.
Ba là: Đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên cùng với việc tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản về trách nhiệm nêu gương, gần đây nhất là Quy định số 144-QĐ/TW (ngày 9/5/2024) Quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới. Nêu gương của cán bộ, đảng viên là tỏ rõ sự biết ơn Bác, tự hào và nguyện làm theo Bác. Nêu gương về lòng trung thành vô hạn với lý tưởng cách mạng, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao. Nêu gương về đạo đức, lối sống trong sáng; về bản lĩnh, trách nhiệm, niềm tin. Nêu gương phải thực chất, tránh hình thức, cố tạo ra hình ảnh, phải thật sự chân thực trong công việc, cuộc sống của mỗi người lãnh đạo, bình dị, giản dị như cuộc đời của Bác.
Bốn là, không ngừng chăm lo củng cố và phát huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, thực sự xem đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là động lực chủ yếu và là nhân tố quyết định thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng để cố kết toàn dân tộc. Mọi đường lối, chính sách của Đảng phải thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân, được đông đảo nhân dân tham gia bàn bạc và thực hiện. Có như thế mới huy động được sức mạnh toàn dân vào sự nghiệp cách mạng.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới phát triển kinh tế nhanh, bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mục tiêu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại là một dấu mốc trong tiến trình CNH, HĐH đất nước, mở ra những điều kiện mới, thuận lợi hơn cho việc tiếp tục xây dựng, phát triển đất nước lên tầm cao mới, cải thiện đời sống nhân dân, tăng cường thế và lực của đất nước. Để đạt được mục tiêu ấy, cần phải nhận thức đầy đủ và vận dụng đúng các quy luật phát triển, huy động được các nguồn lực của đất nước mà trước hết, quan trọng nhất là nguồn lực con người, phải có một lộ trình kế hoạch để từng bước thực hiện.
Sáu là, Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, rèn luyện cán bộ, đáp ứng thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Thực hiện Di chúc của Người và để thực hiện tốt chiến lược “trồng người”, nhằm bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau đạt hiệu quả; đảm bảo xây dựng đội ngũ kế cận tài đức, hoàn thành tốt trọng trách mà Tổ quốc và nhân dân giao phó, trong thời gian tới, các cấp ủy, chính quyền, ban, ngành chức năng từ Trung ương đến địa phương cần tập trung quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, Nhà nước về vị trí, vai trò của thế hệ trẻ, về “đổi mới nội dung, phương thức chính trị, tư tưởng, truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng, lòng yêu nước, xây dựng đạo đức lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho cán bộ, đảng viên nhất là thế hệ trẻ… Phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” theo tinh thần Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ, giai đoạn 2015-2030”. Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - Đoàn Thanh niên - xã hội trong đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ toàn diện về mọi mặt; trong đó, chú trọng nguyên tắc đào tạo gắn với bồi dưỡng, tin tưởng giao việc, tạo điều kiện để tuổi trẻ được trải nghiệm, phấn đấu và trưởng thành; xây dựng nguồn cán bộ trẻ, đảm bảo quy hoạch cho trước mắt và lâu dài, “phải khéo léo kết hợp cán bộ già với cán bộ trẻ”, “không nên coi thường cán bộ trẻ” như Hồ Chí Minh đã căn dặn.
Bẩy là, ngày nay bối cảnh quốc tế đã khác trước rất nhiều, quan hệ giữa các quốc gia đang diễn ra trong quá trình liên kết vừa hợp tác vừa đấu tranh, đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giải quyết mọi vấn đề một cách “có lý, có tình”: Giữ vững nguyên tắc đồng thời phải linh hoạt, năng động, sáng tạo phù hợp với vị trí, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta và tình hình khu vực, thế giới phù hợp với từng đối tác mà ta có quan hệ. Giữ gìn và tăng cường mối quan hệ hợp tác hữu nghị truyền thống với các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế, với nhân dân các nước đã ủng hộ chúng ta trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để thể hiện sự ứng xử tình nghĩa thủy chung với bạn bè quốc tế trong giai đoạn lịch sử mới. Đồng thời đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển./
Trương Thị Tuyết Lan - Khoa Xây Dựng Đảng
Tài liệu tham khảo
1. Nghị Quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH TW Đảng khóa XI, NXB QG ST, HN 2012;
2. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, NXB chính trị QGST, Hà Nội 2021;
3. Dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng, NXB chính trị QGST, HN 2025; trang 15-16;
4. Quy định số 144-QĐ/TW (ngày 9/5/2024) Quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới;
5. Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 16/01/2025 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư...