Bút kí. PHÙNG VĂN KHAI
Hơn
hai mươi năm làm báo, viết văn trong quân đội, đã nhiều lần tôi tiếp
cận với sự hi sinh quả cảm của đồng chí, đồng đội mình ngay trong thời
bình. Điều đó luôn ám ảnh tôi. Day dứt, tiếc nuối và trăn trở. Có người
còn trẻ lắm, vừa tròn hai mươi. Có người chưa biết mặt đứa con sắp sinh
của mình. Có người đang xây dở ngôi nhà cho cha già mẹ héo. Có người
chưa lập gia đình... Một số được phong Anh hùng ngay sau khi hi sinh như
Liệt sĩ Lê Văn Phượng, Lù Công Thắng… Đặc biệt, có một người anh cùng
cơ quan, trong một chuyến công tác, mà chỉ hôm trước thôi, anh còn điện
thoại dặn tôi điều này điều khác về nghề, vậy màmấy ngày sau, anh đã
nằm đó, xương cốt cũng chẳng còn được bao nhiêu trong chiếc quan tài kẽm
phủ lá cờ đỏ sao vàng cùngnhững đồng đội khác.
Nước mắt dường như vô nghĩa với chúng tôi, những người lính, đồng đội của anh.
Đã tròn hai mươi năm, tôi cònrõ mồn một chiếc quan tài kẽm của anh
trong hàng quan tài kẽm phủ lá cờ đỏ sao vàng ấy. Anh là Liệt sĩ -
Thượng tá Nguyễn Duy Thanh.
Khi tôi về mái nhà Truyền hình Quân đội Nhân dân, anh đã có hàng chục
năm tuổi nghề, hàng trăm phóng sự từ chiến trường nóng bỏng đến những
cuộc tháp tùng cờ hoa lộng lẫy nơi trời Âu, Phi cùng các đoàn quân sự
cấp cao. Người con quê Yên Thắng, Yên Mô, Ninh Bình ấy, lịch lãm mà gần
gũi vô cùng. Cơ quan báo chí truyền hình mỗi người mỗi nết, có thể tranh
luận kịch liệt về nghề, phê phán những điểm yếu, quyết liệt những khuôn
hình chưa chuẩn, gay gắt một lời bình hời hợt, dễ dãi, nhưng khi rời
phòng họp là yêu thương quấn túm lấy nhau. Tôi về Truyền hình Quân đội
trong tâm thế e dè của một người trẻ tuổi, chưa từng học nghề, càng chưa
từng làm nghề, cái nghề truyền hình vốn đào thải khốc liệt. Thế thì tôi
sẽ làm sao đây ở nơi cạnh tranh đó? Các chị các anh, nhiều người đã
thành danh, đã là những tên tuổi. Những chị những anh khác đều là những
gương mặt trẻ nổi trội. Tất cả rộng mở bàn tay đón người em út là tôi.
Nguyễn Duy Thanh bảo: Hãy đi xuống đơn vị cùng anh. Đó là nơi những
người trẻ như em rèn luyện trưởng thành.
Tôi nhớ như in lời anh và lăn mình vàosốngcùng bộ đội. Cái ngày ấy vất
vả lắm. Bốn giờ sáng tự mình báo thức, khẽ khàng chui khỏi chăn ấm,
nhóm lửa ăn bát cơm cà muối rau dưa rồi lọc cọc đạp xe ra bến, đi xe
tuyến sang cơ quan 84 Lý Thường Kiệt. Nhà tôi ở một huyện nhỏ tỉnh Hưng
Yên, đến cơ quan hơn hai mươi cây số, mất già một tiếng. Hôm nào cũng
thế, trước sáu giờ sáng tôi đãcó mặt. Tôi vốn con nhà nông nên xác định
phải lấy cần cù chăm chỉ bù những thiếu hụt về học hành, nghề nghiệp.
Nhà văn Chi Phan khi ấy phụ trách Truyền hình Quân đội ở căn phòng riêng
trên gác hai cũng đã sáng đèn. Hai chú cháu không chào hỏi nhau nhưng
đều biết một ngày mới đã bắt đầu. Chính đức tính chăm chỉ của ông đã rèn
tôi không phải bằng lời nói mà là hành động thường trực của mình. Tôi
soạn các tờ báo, ghim đóng theo khuôn khổ đặt ngay ngắn trên bàn rồi mau
chóng đun nước sôi, chuẩn bị trà, đánh ấm chén để các chú các anh bắt
đầu buổi giao ban sớm. Công việc ngày này qua ngày khác, tôi mặc nhiên
kiêm quản vai trò liên lạc của cơ quan. Cần bài vở đưa vào cơ quan Tổng
cụcđánh máy: sẵn sàng. Cần sang Truyền hình Việt Nam đưa công văn: sẵn
sàng. Cần gác cổng sắp xếp xe máy xe đạp của cộng tác viên tới làm việc:
sẵn sàng. Những hôm làm việc khuya, đi mua cơm mua cháo cho các anh,
tôi đều nhất nhất xung phong. Tôi nhập gia đình truyền hình tự nhiên và
có phần an nhiên như vậy. Mọi người cũng tận tình chỉ bảo nghề cho tôi.
Từng câu từng chữ, từng khuôn hình, từng vệt ánh sáng, cả những đường ăn
nết ở ở đời. Anh Duy Thanh là người truyền nghề nhiều và tinh. Anh
khẳng định tôi sẽ theo được nghề. Anh luôn rủ tôi đi làm những phóng sự
dài về văn hoá thể thao. Anh bảo, chú phải phát huy thế mạnh văn học
trong làm truyền hình mới có nét riêng và mới định danh nghề nghiệp
được. Buổi chúng tôi đến chào để anh lên đường theo đoàn cấp cao thăm
nước bạn Lào vào mùa hè năm 1998 định mệnh, cũng là khi anh đang giao
tôi thực hiện một phóng sự dài về bóng đá Thể Công, đội đang trên đà vô
địch nhưng anh đã sớm nhìn thấy những điểm yếu, những hụt hẫng chiến
lược của nó. Duy Thanh rất yêu bóng đá. Anh là bạn thân của huấn luyện
viên trưởng Vương Tiến Dũng khi ấy đang cầm trịch đội bóng. Cái ngày Thể
Công không còn tên nữa, nước mắt tôi đã rơi, không riêng vì tiếc nuối
thương hiệu đội bóng Quân đội mà còn cả nhớ đến anh. Hẳn còn sống, chắc
chắn Duy Thanh sẽ không chịu để mất tên Thể Công dễ dàng như thế.
Trước hôm anh đi Lào, buổi chiều anh mời mấy phóng viên trẻ ra quángần
sân Cột Cờ. Bên cốc bia sủi bọt trắng, anh dặn tôi về những phỏng vấn
với người yêu đội Thể Công. Anh bảo phải để họ cho roi cho vọt mới mong
đội bóng trưởng thành bền vững. Đã có dấu hiệu ngôi sao ở đội bóng bắt
đầu xuống dốcđấy. Tôi bảo, hay chờ anh về vì với những bậc đa đề làng
bóng đá, tôi chưa chắc đã tiếp cận được. Anh bảo tôi hãy mạnh dạn lên.
Mình làm vì nghề, vì đội bóng chứ đâu phải tên tuổi danh dự cá nhân ai
đó. Anh đã điện thoại cho các vị ấy cả rồi. Phần lời bình anh hoàn toàn
tin tưởng ở tôi. Anh bảo, nếu chú viết bớt ôi a đi thì sẽ sắc hơn. Chú
vẫn còn làm văn trong lời bình. Lời bình cần chất văn học nhưng tuyệt
đối tránh làm văn trong đó. Những lời của anh, cả sau này khi anh đã
mất, ở những lời bình phim xuất sắc nhất được các giải thưởng của tôi,
đều ít nhiều ảnh hưởng từ những căn dặn ấy…
Ngay chiều hôm sau, cả cơ quan lặng đi khi nghe thông tin: Máy bay đoàn
công tác bị rơi ở Xiêng Khoảng. Buổi tối, thời sự đưa tin.
Chúng tôi bị sốc nặng. Tất cả lầm lũi, ngơ ngác, đau đớn nhưng vẫn mong
chờ một màu nhiệm nào đó. Căng thẳng nhất có lẽ là vợ anh.
Chị đến cơ quan với một tâm thế rằng anh chưa hi sinh. Cơ quan không
được phát tin hay có động thái gì. Anh vẫn còn sống. Cái sự máy bay rơi
kia, chưa chắc đã phải sự thật. Mà máy bay có rơi thật đi nữa thì anh
vẫn còn sống trong cánh rừng ở nước bạn Lào. Một ngày chị khẳng định
thế. Nhiều ngày chị khẳng định thế. Tất cả cơ quan căng thẳng. Không
riêng gì truyền hình mà cả các cơ quan cấp trên, cấp rất cao đều đang
tất bật, dốc hết sức vào việc tìm kiếm dù rất khó khăn. Việc tiếp cận
khu vực máy bay rơi trên đỉnh núi cao hơn hai nghìn mét là vô cùng phức
tạp trong mùa mưa nước bạn, trời âm u cả ngày cũng như đêm. Những tiểu
đoàn đặc công hai nước vạch đá, xuyên rừng, tiếp cận mục tiêu để xác
định rõ người mất người còn, liên tiếp báo về những thông tin xấu. Ngay
cả Đại tướng Chu Huy Mân, một người lính dày dặn chiến trường qua mấy
cuộc chiến tranh cũng vô cùng bồn chồn, bởi con ông, Thượng tá Chu Tấn
Sơn cũng ở trong đoàn công tác.
Nhưng sự thực đau lòng vẫn diễn ra.
Toàn bộ đoàn công tác với nhiều sĩ quan cao cấp đã hi sinh.
Cái thông tin ghê gớm ấy giáng xuống đầu những người lính thời bình
chúng tôi. Trong đám tang kéo dài ấy, có lúc tôi tưởng như không chịu
đựng nổi. Nhìn dãy quan tài kẽm phủ cờ đỏ nằm im lặng trong hội trường
sân bay Gia Lâm không một ai cầm lòng được. Ngoài kia trời mưa như trút
nước. Sấm nổ đì đoành không dứt. Những vệt sét nhoáng trắng trên vòm
trời xám xịt nước mưa. Từ tờ mờ sáng, trong hội trường vắng ngắt, tôi
thấy rờn rợn khi nhìn vào đôi cầu vai rung rung cùng mái đầu bạc trắng
của Đại tướng Chu Huy Mân đang ôm những chiếc quan tài kẽm có phủ cờ của
đồng đội ông, của con ông. Những mất mát hi sinh này vị tướng trận có
mấy chục năm đằng đẵng đánh Pháp, đánh Mĩ, chiến đấu ở biên giới phía
Nam, biên giới phía Bắc... làm sao ngờ được. Tôi đứng như trời trồng
không bước được khỏi hội trường, nước mắt cứ thế rơi ra.
|
Tác giả (thứ hai từ trái qua) và gia đình liệt sĩ Ngô Văn Vinh - Ảnh: PV |
Cha
mẹ anh Nguyễn Duy Thanh không ngờ là người đứng vững nhất. Cha anh, mái
đầu bạc nâng cô con dâu và các cháu đã như tàu lá héo bên ngôi mộ đang
lấp đất. Trên trời sấm vẫn nổ đì đoành. Tôi chưa từng chứng kiến đám
tangnào đông người và nhiều nước mắt đến vậy. Em trai liệt sĩ Nguyễn
Duy Thanh, anh Việt - khi đó là sĩ quan Cục đối ngoại, Bộ Quốc phòng,
nén nỗi đau cùng cơ quan đoàn thể thu xếp công việc trong tang lễ. Sau
này tôi khá thân với anh và nhận ra, mỗi khi có người hi sinh, những
người thân đều trưởng thành vượt bậc dù không nói nên lời.
Lần đầu tiên tôi chứng kiến liệt sĩ thời bình là như thế.
Sau này, tưởng nhớ anh, nhớ lời căn dặn của anh, tôi thường lăn mình
xuống với bộ đội, đặc biệt nơi nào có chiến sĩ ta hi sinh, tôi thường
sớm có mặt. Đi vì được phân công đã đành, tôi đi còn vì sự thôi thúc của
trái tim mình. Gia đình dòng họ tôi cónhiều liệt sĩ. Hôm công tác Điện
Biên, vào nghĩa trang liệt sĩ, tôi lặng người bởinhững tấm biatrong
đó có nhiều người mang dòng họ Phùng. Thắp những nén hương thơm mà lòng
day dứt dưới trời xanh mây trắng. Đã hơn nửa thế kỉ, sao những người hi
sinh tuổi mười tám đôi mươi vẫn trẻ trung thế này. Dưới đất là xương cốt
người đã khuất. Có những người không vẹn nguyên thi thể. Có cả những
ngôi mộ gió chỉ đất và đất. Nhưng chính họ, đã làm cho lá cờ Tổ quốc
tung bay, đã làm nên non sông của ngày hôm nay mà chúng ta đang sống.
Những buổi đi nghĩa trang Thành Cổ, nghĩa trang Đường 9, nghĩa trang
Trường Sơn, trước trùng trùng mộ trắng, hàng vạn ngôi sao vàng nhấp nháy
trên mộ các chị các anh. Gió thổi miên man. Cỏ xanh. Trời xanh. Những
dòng sông xanh nơi đất mẹ. Và xa kia là biển xanh vạn dặm mà tổ tiên
từng vùi xương trắng máu đào. Năm nào trở lại các nghĩa trang dâng hương
cho các chị các anh, chúng tôi đều vẹn nguyên một cảm xúc thương tiếc
khôn khuây. Hình hài nào chả do cha mẹ sinh thành. Nào ai ước muốn chiến
tranh để những chàng trai cô gái mười tám đôi mươi phải lấy thân mình
hiến dâng cho Tổ quốc. Tổ quốc của chúng ta, vẻ đẹp đầu tiên phải là vẻ
đẹp những anh hùng liệt sĩ.
*
* *
Có rất nhiều chiến sĩ hi sinh trong thời bình.
Không một ai mong muốn điều đó. Thế mà nó vẫn diễn ra. Đó là nỗi đau, trăn trở lớn nhất của chúng ta trong cuộc sống hôm nay.
Khi đối diện người vợ trẻ của liệt sĩ Đặng Đình Hào ở Yên Khánh, Ninh
Bình, tôi đã không dám nói với cô một điều gì. Nhìn đàn gà con lích rích
ngoài sân bên cạnh cậu bé con liệt sĩ Hào lẫm chẫm, tôi thấy mọi lời
đều thừa thãi. Hôm cùng nhà văn Nguyễn Thế Hùng đến thăm gia đình liệt
sĩ Lê Văn Phượng ở Nghệ An, tôi còn bàng hoàng hơn khi trong căn nhà
tuềnh toàng dột nát, người mẹ già gần chín mươi tuổi đã không dậy được,
nằm trên chiếc chõng tre, bên dưới là chậu than hồng nghi ngút khói
trong tiết trời lạnh 5-6độ. Hôm ở Lạng Sơn, trước vành khăn trắng của
vợ liệt sĩ Ngô Văn Vinh, tôi và nhà báo Hàn Viết Hoan - Báo Biên phòng
cũng chỉ biết ngồi im như tượng. Rồi trong căn nhà nhỏthuê của một đơn
vị xăng dầu, chị Đỗ Thị Hương, vợ liệt sĩ Vũ Anh Dũng mới ngoài hai mươi
tuổi ru con ngủ khi chúng tôi quay những cảnh phim càng như cứa vào tâm
can mỗi người. Những nỗi đau quá lớn với một gia đình, mỗi người cha,
người mẹ, người vợ, người con. Họ đâu có lỗi gì. Họ càng không đáng phải
chịu thiệt thòi như vậy.
Liệt sĩ Nguyễn Tuấn Ngãi hi sinh ngày 22/4/2013 tại đèo La Hy, xã Hương
Phú, huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là vùng dân tộc ít người,
thường xuyên xảy ra cháy rừng rất khủng khiếp. Nguyễn Tuấn Ngãi quê ở
Văn Thành, Yên Thành, Nghệ An. Cha anh, người lính từng chiến đấu ở mặt
trận Bình Trị Thiên như một động cơ thôi thúc anh nhập ngũ. Có ai ngờ,
anh lại hi sinh đúng nơi vùng đất ngày xưa cha mình từng chịu mưa bom
bão đạn. Chiến đấu với giặc lửa cứu dân nơi đồng đội cha mình từng hi
sinh xương máu, người lính Nguyễn Tuấn Ngãi đã ngã xuống. Người cha, ông
Nguyễn Tuấn Đức nghẹn ngào nhắc nhớ con trai: Mấy tháng trước, hai vợ
chồng tui vô thăm con trong đó, thấy đồng đội và con trưởng thành mà
mừng. Dọc bản, ai cũng bảo ông có người con đúng là Bộ đội Cụ Hồ. Người
Nghệ An quê Bác Hồ tốt quá. Bộ đội Ngãi giúp đỡ bà con nhân dân nhiều
lắm.
Thế mà giờ đã hai thế giới âm dương.
Châm nén hương trên bàn thờ con mình, ông Đức thờ thẫn như người mất hồn
mất vía. Xưa mưa bom bão đạn suýt cướp cuộc đời ông. Nay bão lửa cháy
rừng đã thực sự cướp đi người con máu thịt. Nước mắt người đàn ông bảy
mươi tuổi như vón cục khiến chúng tôi nghẹn lại.
Có liệt sĩ hi sinh trong thời bình này khi vừa tròn hai mươi tuổi.
Anh là Hoàng Đặng Hùng, sinh năm 1984 tại quận Ngô Quyền thành phố Hải Phòng.
Hoàng Đặng Hùng nhập ngũ năm 2002 khi mới 18 tuổi.
Anh hi sinh ngày 25/7/2004 khi vừa tròn 20 tuổi.
Liệt sĩ Hoàng Đặng Hùng là con trai duy nhất trong gia đình bố mẹ đều là
bộ đội công tác tại Cục Kĩ thuật - Quân chủng Hải quân. Chàng trai mười
tám tuổi chắc là hồn nhiên và vô tư lắm, cả mộng mơ nữa khi cầm súng
canh giữ biển trời Tổ quốc ở đảo chìm thuộc quần đảo Trường Sa. Một năm ở
đảo, chàng trai mười tám rắn rỏi, trưởng thành, nước da sạm màu cát
biển. Trong một lần cứu tàu giữa cơn lốc xoáy, Hùng anh dũng hi sinh.
Trong lễ đón nhận liệt sĩ Hùng từ Trường Sa về quê hương, Thiếu tướng
Bùi Sỹ Trinh - Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Hải quân bùi ngùi:
Trong thời chiến và ngay cả thời bình, vẫn có những người chiến sĩ ngã
xuống vì sự bình yên của Tổ quốc. Máu của các chiến sĩ ngấm vào đất, tan
vào biển để ngày ngày góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng
và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Sự hi sinh anh dũng của liệt sĩ Hoàng Đặng
Hùng như tiếp thêm sức mạnh cùng quân và dân cả nước làm thất bại mọi ý
đồ của các thế lực thù địch lăm le lấn chiếm, xâm phạm chủ quyền vùng
biên hải thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.
Liệt sĩ Hoàng Đặng Hùng như bó đuốc sáng mãi tuổi hai mươi.
Những người hi sinh trong thời bình ở Trường Sa, không ít người có hoàn
cảnh rất đặc biệt. Chị Đinh Thị Xoa, vợ liệt sĩ Đinh Văn Nam sinh năm
1982 thuộc Lữ đoàn Hải quân 125 cho biết, hai vợ chồng cưới nhau từ năm
2010. Vì nhiệm vụ công tác nên từ lúc cưới đến khi anh hi sinh, chị mới
được gặp chồng ba lần. Anh Nam cũng chỉ được gặp cô con gái đầu lòng của
mình duy nhất một lần. Trong nước mắt, người vợ trẻ nói câu được câu
mất: Hai vợ chồng dự tính sắp tới, anh ấy xin chuyển công tác về Hải
Phòng để được gần vợ gần con. Tôi cũng tính khi nào anh ấy ra thì cố đi
xin việc làm rồi lo cho con. Buổi tối hôm trước khi hi sinh, anh ấy vẫn
gọi điện về nói chuyện với gia đình…
Liệt sĩ Nam hi sinh khi đang thực hiện nhiệm vụ cứu hộ một tàu Hải quân
mắc cạn trên khu vực đảo Phan Vinh thuộc quần đảo Trường Sa. Đảo Phan
Vinh là khu vực luôn có sóng to gió lớn. Kiên quyết cứu tàu, Đinh Văn
Nam hi sinh khi bị cáp tàu hất văng xuống biển.
Nước biển như càng mặn hơn, thiêng liêng hơn ở từng hạt cát chủ quyền.
Đối diện trước những bức thư của chồng gửi về vẫn còn nguyên vẹn, người
vợ liệt sĩ - chị Nguyễn Thuý Hạ ở xóm 14, xã Tòng Bạt, huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội như vẫn bâng khuâng nhớ về anh. Nguyễn Hữu Hoà sinh năm
1971, nhập ngũ, được biên chế vào Lữ đoàn Công binh vượt sông 249 với
công việc thường trực của ngành. Làm vợ lính Công binh vất vả đã đành,
còn phải thường xuyên xa cách. Những lá thư như những cánh én nối từ đơn
vị về gia đình thân thương biết mấy đang còn nguyên vẹn. Chị bảo, tính
từ lúc cưới đến khi có hai mặt con, chẳng mấy khi anh ấy ở nhà. Cho đến
lúc hi sinh, đã tám tháng anh không về và khi về lại là một thông tin
định mệnh. Trong nước mắt, người phụ nữ sẻ chia những câu chuyện thật
đến thắt lòng: Tôi vốn nhút nhát, mỗi khi đêm đến tôi thấy rất sợ. Nhà
chỉ có ba mẹ con, lại ở giữa khu cánh đồng hoang vắng nên chỉ một tiếng
động nhỏ cũng thấy giật mình. Trước đây, khi anh Hòa còn sống, dù lâu
lâu anh mới tranh thủ về nhà thăm vợ con nhưng đó vẫn là một điểm tựa,
niềm tin. Từ ngày anh mất đi, tôi càng cảm thấy sợ và cô đơn, nhưng vì
nghĩ đến con nên cố gắng ở vậy nuôi các cháu ăn học nên người để anh có
thể mỉm cười nơi chín suối.
Đứa con thứ hai chưa đầy ba tuổi trong lòng chị ngước cặp mắt trong veo ngơ ngác nhìn mẹ rồi nhìn về phía chúng tôi.
Mỗi người lính hi sinh ở thời bình, gia đình đều có mỗi vẻ khác nhau.
Căn nhà nhỏ ở xã Yên Thọ, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh là nơi
chúng tôi cùng đoàn công tác đến thăm gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Đoàn.
Năm 2011, khi chở vũ khí gặp lũ quét bị lật xe, anh đã dũng cảm cứu xe
và hi sinh.Bàn thờ nghi ngút hương thơm. Chị Trần Thị Thạch vợanh đang
lầm rầm khấn. Di ảnh liệt sĩ là một thiếu uý còn rất trẻ với đôi mắt
sáng nhìn ra phía trước. Chúng tôi tiến tới bàn thờ thắp nén hương thơm.
Đôi mắt anh nhìn chúng tôi như nhắn nhủ. Vâng. Điều anh nhắn nhủ, nhất
định chúng tôi, những đồng đội của anh sẽ làm được.
Nhất định thế.
*
* *
Những
ngày ngâu tháng Bảy, cây cỏ đất trời u ám sũng nước. Từng đoàn, từng
đoàn người đi về các nghĩa trang liệt sĩ. Những bông huệ trắng thơm,
bông cúc vàng vương giọt nước mưa hay nước mắt người đồng đội, người mẹ,
người vợ, người con đứng trang nghiêm trước bạt ngàn mộ trắng. Người
nào còn chưa về đây, còn vương vấn nơi đỉnh núi đáy khe, nơi hoa sim hoa
mua hoa gạo ủ lửa tháng ngày. Người nào đang đêm ngày nơi đầu sóng ngọn
gió, bão lốc rình rập, lũ quét hung dữ, lửa cháy ngút rừng… Từng mảnh
đất thuở chiến tranh đang xanh lại, đang mở ra chặng đường no ấm. Những
người nằm dưới cỏ hẳn cũng ấm lòng. Trong đoàn người thành kính ấy, ở
những nghĩa trang nhỏ nơi thôn mạc, có cả những người cha, người mẹ từng
bước ra khỏi chiến tranh đang đứng trước mộ con mình. Và người vợ trẻ
dắt theo những cô bé, cậu bé lẫm chẫm vành khăn trắng. Có những nấm mộ,
cỏ còn chưa xanh hết. Mái đầu người cha trắng cước như bị vít xuống tấm
bia in ảnh quân phục người con đang nhìn thẳng. Gió thổi. Gió từ đâu đưa
những cánh bướm chập chờn lẫn vào hương khói, vào cánh hoa cúc hoa huệ
đang lặng lẽ toả hương thơm.
P.V.K
Nguồn: vannghequandoi.vn