Hồi ấy chị Vân thường rủ tôi ra đồng giữ trâu. Chị nói đi một mình sợ ma, rủ tôi đi cho vui.
Minh họa: Bùi Quang Đức |
|
Đó
là những ngày sau tết, lúa đã vô bồ, còn lại cánh đồng mênh mông gốc
rạ. Vào những buổi trưa nắng, chị Vân bảo tôi cột trâu lại, còn chị tìm
đến một cái gò cao, lựa một đám gốc rạ còn xanh, lấy dao cắt một lõm đủ
hai người nằm rồi trải dưới đất một lớp rạ khô, phần rạ tươi, chị phủ
lên che nắng. Khi tôi cột xong mấy con trâu thì chị Vân cũng vừa làm
xong cái chòi rạ. Chị nhìn tôi cười mỉm: “Giống cái túp lều lí tưởng
hôn?”. Rồi không ai bảo ai, chị nằm xuống trước, tôi nằm theo sau, cạnh
chị. Thỉnh thoảng chị lại nhìn sang tôi cười mỉm, tôi cũng cười, rồi cả
hai chìm trong giấc ngủ trưa. Có hôm tôi thức trước, chị Vân vẫn còn ngủ
say, nằm thẳng người, hai tay úp lên ngực, hơi thở cứ đều đều. Lúc ấy
trời đã xế dài, những tia nắng dìu dịu trùm lên cánh đồng rạ khô vàng
rực. Chị Vân ngồi bật dậy, nhìn tôi cười rồi vỗ lên đầu tôi: “Ngủ ngon
hôn, thằng nhóc!”.
Chúng tôi lùa trâu đến một cái đìa lớn, từng
người bạn mục đồng cũng lần lượt lùa trâu đến. Tôi đứng dưới cầu thang
múc từng thùng nước chuyền lên cho chị Vân đổ vào thau cho trâu uống.
Như một thói quen, khi đàn trâu uống nước no nê thì đến lượt con người
tắm rửa. Cả gái, cả trai cứ để nguyên quần áo, tắm xối xả trên bờ đìa.
Trong bộ bà ba đen đẫm nước bó sát người, chị Vân gánh hai thùng nước đi
tắt đường đồng về nhà, tôi ngồi trên lưng trâu lững thững theo sau. Đôi
gánh oằn vai, chị đi trong bóng chiều thấp thoáng.
Tôi về nhà,
cơm nước xong thì trời chạng vạng, hàng xóm lên đèn, trăng rằm tháng
giêng cũng lấp lánh ở đầu sông. Tôi sang nhà chị Vân, hai chị em ra ngồi
dưới cây rơm, bắt đầu công việc quấn hai con cúi dài để làm bếp un xua
muỗi cho bầy trâu. Quấn xong, chị Vân đốt lửa, tôi lấy nước rưới lên con
cúi cho lửa rơm đừng cháy, cho khói bốc lên ngun ngút, từng làn khói
trắng cuồn cuộn, mịt mờ phủ lên cả bầy trâu, mùi khói rơm đầu mùa thơm
nồng như mùi lúa mới. Chúng tôi lại ngồi tựa dưới chân rơm. Bất giác chị
Vân xoa đầu tôi, hỏi tôi mấy tuổi. Tôi nói mười lăm. Chị bảo: “Nhỏ hơn
chị hai tuổi, mà sao mầy khờ quá!”. Tôi chưa hiểu chị nói gì thì chị kể:
“Cùng tuổi với mầy, nhưng thằng Tư nó cặp bồ với con Xuân, thằng Hòa
cặp với con Gấm, mùa nước mặn đuổi năm rồi, chúng nó đi giăng lưới, ban
đêm tụi nó ngủ chung xuồng. Con Xuân, con Gấm cũng lớn hơn tụi nó hai ba
tuổi…”.
Tôi cúi đầu hổ thẹn. Thẹn cho cái phận nghèo hơn là thẹn
cho cái sự khờ khạo của mình. Tôi nghĩ chị Vân thương tôi như một đứa
em, một đứa em nghèo khổ mà chị cần giúp đỡ. Hồi ấy, tôi luôn mặc cảm
với bạn bè trong xóm vì nhà mình ít ruộng lại không có trâu, nhà nông mà
không có trâu thì đương nhiên là nhà nghèo. Mấy công ruộng nhà tôi,
những công việc ngoài sức người đều dựa vào đàn trâu của chị Vân. Mùa
cày mùa trục thì bác Năm - ba chị - tính tiền công, đến mùa gặt, cộ lúa
vào sân cũng tính tiền công, nhưng trâu đạp lúa thì bác không tính tiền,
nhưng bù lại tôi phải giữ trâu trả công cho bác trong một hai tháng
trước và sau tết. Bác Năm quy ước với ba mẹ tôi là vậy, nhưng chị Vân ít
khi để tôi giữ trâu một mình, ngay cả những ngày trâu đạp lúa, bác nói
chỉ cho mượn trâu, tôi tự đánh trâu trên nhã lúa, nhưng chị Vân lúc nào
cũng có mặt, thay phiên làm công việc ấy với tôi.
Ban đêm, khi
cho trâu ngừng đạp để bắt bó, ra rơm, thay vì đốt đèn măng-xông thì chị
Vân rủ tôi xuống bờ sông đốt lửa, chị nói mình chịu tốn công mà khỏi hao
dầu. Tôi ôm từng ôm rơm quăng xuống nước, chị mồi lửa và lấy sào tre
đẩy từng đống lửa trôi bồng bềnh, sáng rực một khúc sông. Cứ thế, không
biết từ mùa lúa nào, việc gì tôi cũng làm cùng chị, việc gì chị cũng gọi
tôi. Ngay cả những khi ra đồng cộ lúa, chị cũng rủ tôi lên chiếc cộ
trâu ngồi cùng. Những buổi tối nướng bánh phồng đãi khách, chị cũng gọi
tôi sang đốt rơm, chị kẹp bánh phồng chao tới chao lui trên ngọn lửa.
Khi rê lúa, chị là người đứng trên giàn rê, bảo tôi đứng cạnh để chuyền
từng thúng lúa lên cho chị. Cũng chính lần ấy, lần đầu tiên trong đời
tôi phát hiện ra chị Vân là người con gái đẹp. Hôm ấy chị mặc bộ bà ba
màu đen, cái dáng cao cao, chị đứng trên giàn rê lúa cũng cao cao, từng
cơn gió lùa qua, chị nghiêng vành thúng, lúa hột tuôn xuống, lúa lép bay
bay, bụi rơm bay bay, tà áo chị cũng bay bay, ngược theo chiều gió là
một cơ thể với những đường nét cong cong của vòng eo, vòng ngực căng
tròn. Tôi cứ nhìn ngẩn ngơ mà quên chuyền lúa lên cho chị. Bất giác chị
quay xuống, dường như bắt gặp ánh mắt của tôi, chị vội đưa tay níu nhanh
vạt áo, mặt đỏ bừng. Tôi lại cúi đầu hổ thẹn, tiếp tục chuyền lúa lên
mà không dám nhìn chị nữa.
Và khi tôi không còn “dại khờ” thì
cũng là mùa lúa cuối cùng tôi được gần gũi chị. Mùa sa mưa năm ấy, mẹ
tôi đưa tôi ra chợ, từ giã rạ rơm để làm gã thư sinh giữa chốn thị
thành. Khi tôi biết được tình yêu thì hình ảnh người con gái trong tôi
là chị. Là chị với những giấc ngủ trưa trong chòi rạ giữa đồng, là chị
với đôi thùng nước, chiếc đòn gánh oằn vai đi giữa đồng rạ khô trong
bóng chiều thấp thoáng, quần áo ướt mem bó sát thân gầy, là chị ngồi
dưới cây rơm quấn từng con cúi làm bếp un trâu, là chị ngồi đốt rơm sáng
bừng cả một khúc sông, là chị với những đường nét cong cong, ngực căng
tròn đứng trên giàn rê lúa… Nhưng năm sau, nghỉ hè, tôi về quê thì chị
đã đi lấy chồng xa. Mùa sa mưa, cây rơm - chỗ tôi với chị hay ngồi quấn
con cúi - đã rũ mục, những chiếc nấm rơm bung trắng một vùng tròn.
Hơn
ba mươi năm, cuộc đời đưa đẩy tôi thành kẻ li hương mà chưa được một
lần gặp chị, chắc tóc chị bây giờ cũng lớm đớm như tôi. Nếu tình cờ đọc
được những dòng nầy, chắc chị sẽ cười thầm và mắng thầm trong bụng: “Cái
thằng quỷ, sao hồi xưa mầy khờ quá vậy!”
Nguồn: dangcongsan.vn