Bản
 Tuyên ngôn Độc lập ngắn gọn nhưng chứa đựng những nội dung bất hủ, 
không chỉ có giá trị lịch sử đối với dân tộc Việt Nam, mà còn có ý nghĩa
 thời đại.
“Tuyên ngôn Độc lập” - Áng văn lập quốc vĩ đại, là văn kiện có giá trị cao về tư tưởng, lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ngày
 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình, với hình ảnh vị Cha già 
của dân tộc - Chủ tịch Hồ Chí Minh cất lời tuyên bố dõng dạc với quốc 
dân, đồng bào và nhân dân thế giới, vẫn như vang vọng khắp không gian, 
khắc ghi sâu đậm trong tim mỗi người lời tuyên ngôn: “Một dân tộc đã gan
 góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc 
đứng về phía Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được 
tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự 
do và độc lập, sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”.
Tuyên
 ngôn Độc lập là bản “Thiên cổ hùng văn”, kết tinh truyền thống lịch sử 
kiên cường, bất khuất của dân tộc ta, là bản anh hùng ca mở ra kỷ nguyên
 mới của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và góp phần làm 
phong phú về quyền tự quyết của các dân tộc trên thế giới - quyền độc 
lập, tự do. Tuyên ngôn Ðộc lập đã kết thúc với một quyết tâm sắt đá: 
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một 
nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh 
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập
 ấy”.
Bản Tuyên ngôn
 chính thức chỉ ra một chính quyền cách mạng mới của nhân dân Việt Nam 
được xây dựng và trưởng thành theo đúng ý nguyện của mọi tầng lớp nhân 
dân và cả dân tộc Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập khẳng định ý chí sắt đá 
không gì lay chuyển nổi và đồng thời là triết lý nhân sinh vĩnh hằng của
 dân tộc Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện “Không có gì quý 
hơn độc lập, tự do”.
Tuyên
 ngôn Độc lập là sản phẩm của sự kết hợp các giá trị của truyền thống 
anh hùng, bất khuất và ý chí độc lập dân tộc của Việt Nam với sứ mệnh 
cao cả của giai cấp vô sản được đề cập trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản 
(năm 1848). Nó thể hiện rõ nét cách mạng Việt Nam là một bộ phận hữu cơ 
của cách mạng thế giới và giai cấp vô sản Việt Nam là một bộ phận không 
thể tách rời của giai cấp vô sản thế giới, có sứ mệnh lịch sử cao cả và 
vĩ đại là giải phóng dân tộc và nhân loại.
Bản
 Tuyên ngôn còn cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn xa về sự phát
 triển của lịch sử, có những dự báo thiên tài về tương lai của cách mạng
 cũng như quá trình hội nhập sâu rộng của cách mạng Việt Nam vào phong 
trào cách mạng thế giới. Tuyên ngôn Độc lập cũng là áng văn chính luận 
giàu chất trí tuệ, chứa đựng những tư tưởng cao đẹp, giàu giá trị nhân 
bản. Không khô khan, lý trí mà giàu cảm hứng, không bi lụy, cảm thương, 
mà có giọng điệu hùng tráng quyết đoán, uyển chuyển, thuyết phục. 
Bản
 Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà 
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, do Chủ tịch Hồ Chí Minh 
trực tiếp soạn thảo và công bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và thế 
giới cho thấy trí tuệ sắc sảo và lỗi lạc của Người. Đây là kết quả của 
một quá trình tư duy khoa học độc đáo và thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí 
Minh. Điều đó càng khẳng định rõ ràng và nhất quán một chân lý hết sức 
giản dị nhưng có tầm khái quát cao là: Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ 
Chí Minh cũng như trí tuệ sắc sảo của Người mãi mãi soi sáng đường chúng
 ta đi.
Khẳng định 
giá trị “Tuyên ngôn Độc lập” trong Lời giới thiệu tập 4, cuốn Hồ Chí 
Minh toàn tập của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia: “Mở đầu tập 4 là kiệt
 tác Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tổng kết 
những giá trị chung của nhân loại trong cuộc đấu tranh vì quyền bình 
đẳng thiêng liêng của các dân tộc và tiến trình đấu tranh vì nền độc lập
 của nhân dân Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập là áng văn lập quốc vĩ đại, 
là văn kiện có giá trị cao về tư tưởng, lý luận của Chủ tịch Hồ Chí 
Minh, tuyên ngôn trước toàn thế giới về kỷ nguyên độc lập của dân tộc 
Việt Nam, đồng thời thể hiện rõ thiện chí hòa bình và quyết tâm sắt đá 
của nhân dân ta quyết bảo vệ nền độc lập mới giành lại được sau hơn 80 
năm phải sống dưới ách cai trị của đế quốc xâm lược” [1].
Tuyên ngôn Độc lập với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay
Tròn
 73 năm trôi qua, những giá trị lý luận và thực tiễn trong Tuyên ngôn 
Độc lập vẫn tỏa sáng và là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng Việt 
Nam và của Đảng ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam 
xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Tuyên
 ngôn Độc lập đã, đang và sẽ là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành 
động của Đảng ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã 
hội chủ nghĩa hiện nay. 
Chúng
 ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
 quốc tế, khu vực và trong nước có nhiều thời cơ, thuận lợi, nhưng cũng 
không ít khó khăn, thách thức. Trước điều kiện đó càng đòi hỏi những 
người Cộng sản phải kiên định, vững tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư 
tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ 
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. 
Từ
 khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn trung thành với
 tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh trong 
Tuyên ngôn Độc lập nói riêng, đồng thời vận dụng đúng đắn và phát triển 
sáng tạo phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta, phù hợp với 
cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì 
thế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi 
khác, đặc biệt là đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch 
sử trong công cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước
 ta.
Phân tích bối 
cảnh ra đời và quá trình hình thành, phát triển đường lối đổi mới của 
Đảng ta với những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta đã 
đạt được cả về lý luận và thực tiễn, chúng ta mới thấy hết được những 
giá trị to lớn của những nguyên lý cơ bản đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh 
khởi thảo cách đây 73 năm trong Tuyên ngôn Độc lập; mới thấy hết được 
bản lĩnh chính trị vững vàng và tầm cao trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt 
Nam - người khởi xướng, phát động và lãnh đạo công cuộc đổi mới; mới 
thấy hết được sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta 
trong hơn 30 năm qua. Điều đó, một lần nữa chứng minh giá trị to lớn, 
sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, nhất là những 
nguyên lý cơ bản mà Hồ Chí Minh đã viết trong Tuyên ngôn Độc lập đối với
 công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuyên
 ngôn Độc lập là ngọn cờ tư tưởng, tiếng kèn xung trận thúc giục toàn 
Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ 
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Văn phong trong Tuyên ngôn Độc lập ngắn 
gọn và súc tích. Cách hành văn, cách so sánh, lập luận, lý giải hết sức 
tường minh, đầy tính thuyết phục. Hồ Chí Minh đã sử dụng tối đa nghệ 
thuật hùng biện trong dẫn dắt, lôi kéo thúc giục con người sẵn sàng dấn 
thân hành động.
Bản 
Tuyên ngôn Độc lập là sản phẩm của sự kết hợp các giá trị của truyền 
thống anh hùng, bất khuất và ý chí độc lập của dân tộc Việt Nam với sứ 
mệnh cao cả của giai cấp vô sản Việt Nam. Nó thể hiện rõ nét cách mạng 
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và giai cấp vô sản Việt 
Nam là một bộ phận của giai cấp vô sản thế giới. Bản Tuyên ngôn Độc lập 
còn thể hiện sự trung thành tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư 
tưởng Mác - Lê-nin: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn 
kết lại” - đó chính là giá trị vĩnh hằng, không chỉ đối với công cuộc 
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, mà còn có
 giá trị đối với phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế cùng với các 
lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới.
Không thể xuyên tạc giá trị của “Tuyên ngôn độc lập”
Tuyên
 ngôn Độc lập được Bác Hồ tuyên đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 
02/9/1945 là tuyên ngôn lập quốc của dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí 
Minh, thể hiện sâu sắc ý chí, khát vọng của nhân dân ta về độc lập dân 
tộc và chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, vẫn có luận điệu cố tình bóp méo, 
xuyên tạc giá trị của bản Tuyên ngôn này, cần phải đấu tranh phản bác.
Họ
 xuyên tạc rằng, Tuyên ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh khởi thảo và tuyên 
đọc tại Quảng trường Ba Đình là “khuôn theo” những tư tưởng của Tuyên 
ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 
của cách mạng Pháp năm 1791(?). Cần khẳng định, đó là những luận điệu 
sai trái, bóp méo sự thật lịch sử, theo đuổi mưu đồ chính trị lỗi thời, 
đi ngược với lợi ích, truyền thống văn hóa, nhân văn của dân tộc.
Bản
 “Tuyên ngôn Độc lập” được khởi đầu bằng câu trích từ bản Tuyên ngôn độc
 lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình 
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong 
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh 
phúc”[2]. Tiếp sau câu dẫn luận ấy là một câu khác trích từ Tuyên ngôn 
nhân quyền và dân quyền nổi tiếng năm 1791 của cách mạng Pháp: “Người ta
 sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do 
và bình đẳng về quyền lợi” [3].
Vì
 sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại trích dẫn hai câu trên và coi đó như lời 
mở đầu cho một văn kiện có tầm quan trọng đặc biệt - Bản Tuyên ngôn Độc 
lập của dân tộc mình? 
Với
 tầm nhìn xa, trông rộng, sự mẫn cảm về chính trị và thông hiểu thực 
tiễn, Người thấu hiểu một điều hiển nhiên rằng giành được nền độc lập đã
 khó, để giữ được nền độc lập còn khó hơn nhiều, hơn nữa để nền độc lập 
đó được tất cả các nước thừa nhận và tôn trọng còn khó hơn gấp bội lần. 
Có lẽ vì vậy, ngay khi khởi thảo Tuyên ngôn, Người đã muốn bản Tuyên 
ngôn như một vũ khí pháp lý - ngoại giao đặc biệt sắc bén để chống lại 
kẻ thù, đồng thời đó cũng là bước đi đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân 
chủ Cộng hòa trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc ở thời khắc
 vô cùng khó khăn của lịch sử. Nhìn nhận rất rõ bản chất của kẻ thù và 
vận mệnh của dân tộc, lấy hai câu được coi là “bất hủ”, là “khuôn thước”
 của cách mạng Pháp, nước Mỹ làm đề dẫn, là ẩn ý của Người. Chủ tịch Hồ 
Chí Minh muốn sử dụng ngay cái “chân lý cao cả” mà nhân dân Pháp, nhân 
dân Mỹ phải đổ bao xương máu và nước mắt để viết nên, làm vũ khí sắc bén
 để chống lại kẻ thù. Bởi Người rất thấu hiểu cái lẽ rằng: “Triết lý đạo
 Khổng, và triết lý phương Tây đều tán dương nguyên tắc đạo đức “Kỷ sở 
bất dục, vật thi ư nhân” [4] (điều mà mình không muốn thì đừng làm cho 
người khác). Đây là lời đáp từ của Người với Chủ tịch Chính phủ Pháp 
G.Biđôn tại buổi tiệc chiêu đãi Người nhân dịp Người sang thăm nước Pháp
 vào ngày 2 tháng 7 năm 1946.
Có
 thể khẳng định rằng, độc lập, tự do, chủ quyền dân tộc là tư tưởng chủ 
đạo của bản Tuyên ngôn độc lập. Đó cũng là mục đích lớn nhất trong sự 
nghiệp cách mạng của Người. Trước sau Người vẫn luôn trăn trở, luôn tìm 
mọi cách để khẳng định cái quyền thiêng liêng mà hiển nhiên người Việt 
Nam phải được hưởng đó.
Người
 cũng hiểu rằng, đương thời các thế lực thực dân, đế quốc không dễ gì 
chấp nhận một nước Việt Nam độc lập. Chúng muốn tiêu diệt chính quyền 
cách mạng non trẻ của người Việt Nam. Vì thế, không những chỉ trong 
Tuyên ngôn, mà ngay cả trong rất nhiều bài viết, bài nói chuyện sau này,
 Người luôn muốn dùng chính cái câu khẩu hiệu: “Tự do - bình đẳng - bác 
ái” mà kẻ thù đang lợi dụng cho cái gọi là “khai hóa văn minh” ở Việt 
Nam, cũng như các thuộc địa, để khẳng định cái quyền thiêng liêng đó của
 một dân tộc.
Lại có
 luận điệu cho rằng “Tuyên ngôn độc lập” đã rơi vào “chủ nghĩa dân tộc”.
 Đây là một cách diễn đạt thiếu chính xác, không đầy đủ. Cách diễn đạt 
này dù vô tình hay hữu ý đã bỏ qua tính giai cấp, làm mờ đi lập trường, 
quan điểm giai cấp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhận thức và giải 
quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam.
 Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận thiên tài của 
cách mạng Việt Nam. Người đã để lại một hệ thống quan điểm toàn diện và 
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, một cuộc cách 
mạng vừa phải giành độc lập dân tộc thực sự, vừa phải giải quyết vấn đề 
dân chủ triệt để, giải phóng nhân dân lao động hoàn toàn thoát khỏi áp 
bức, bóc lột. Và, luận điểm trung tâm, xuyên suốt để giải quyết triệt để
 cả hai vấn đề ấy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là độc lập dân tộc gắn 
liền với chủ nghĩa xã hội. Như thế, vấn đề dân tộc cần phải được giải 
quyết theo lập trường của giai cấp vô sản.
 Ngay từ những năm đầu đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Người đã phân 
biệt rõ “chủ nghĩa dân tộc bản xứ” - chủ nghĩa dân tộc truyền thống ở 
các nước thuộc địa, với “chủ nghĩa quốc tế” - chủ nghĩa dân tộc theo lập
 trường của giai cấp vô sản. Người viết: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực 
lớn của đất nước... Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế
 Cộng sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi... nhất định chủ 
nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế” [5]. Người luôn nhắc 
nhở khi giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng vững trên lập trường vô sản,
 tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa sô-vanh 
cũng như chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại. 
V.I.Lênin
 đã từng cảnh báo: “Chừng nào người ta chưa phân biệt được lợi ích của 
các giai cấp này hay giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, 
những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo đức, tôn 
giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ
 ngốc nghếch bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị” [6].
Tuyên
 ngôn Độc lập ra đời đã hơn 70 năm, song tinh thần và giá trị của Tuyên 
ngôn Độc lập vẫn đang tỏa sáng.Đây là một di sản văn hóa, sức mạnh nội 
sinh của dân tộc ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Năm 
tháng sẽ trôi qua, nhưng Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam 
Dân chủ cộng hòa vẫn sống mãi trong lòng bao thế hệ con người Việt Nam 
không chỉ bởi giá trị lịch sử, pháp lí mà còn bởi giá trị nhân văn về 
quyền con người và quyền dân tộc. Ngày nay, nước Việt Nam đã trở thành 
một quốc gia độc lập, hòa bình thống nhất; là quốc gia có vị trí và uy 
tín trên trường quốc tế. Ánh sáng và tinh thần của Tuyên ngôn Độc lập 
mãi là ngọn đuốc soi đường cho toàn Đảng, toàn dân ta vững bước đi 
lên./.
Chú thích
[1], [2], [3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.VII; tr.1; tr.1;
[4] Sđd, tập 4, tr.304
[5] Sđd, tập 1, tr.511
[6] V.I. Lênin, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.57.